Bí mật núi sát nhân - Chương 01

Bí mật núi sát nhân - Chương 01

Bí mật núi sát nhân
Chương 01

Ngày đăng
Tổng cộng 70 hồi
Đánh giá 8.4/10 với 69636 lượt xem

Tồn tại bên lề của Washington D.C, câu lạc bộ gồm 4 thành viên lập dị. Dưới sự lãnh đạo của một người đàn ông bí ẩn được biết dưới cái tên “Oliver Stone”, họ nghiên cứu những giả thuyết âm mưu, những sự kiện thời sự và các toan tính của chính phủ nhằm phanh phui sự thật ẩn sau những hành động của nước Mỹ. Những nỗ lực của họ hầu như không mang lại kết quả gì - cho đến khi cả nhóm chứng kiến một vụ giết người dã man... và rồi họ bị cuốn vào một âm mưu khủng khiếp và ghê gớm.
Giờ đây các thành viên trong câu lạc bộ phải chung tay với một nhân viên mật vụ để đương đầu với một trong những kế hoạch tinh vi, độc địa nhất từng diễn ra trên đất Mỹ - một sự kiện có thể làm bùng lên cuộc chiến cuối cùng giữa hai thế giới khác nhau. Và tất cả những gì có thể ngăn chặn ngày tận thế này là năm vị anh hùng bất đắc dĩ.
Giới thiệu tác giả:
david-baldacci-ebook
David Baldacci (05/08/1960) là tác giả của 14 tiểu thuyết liên tiếp nằm trong danh sách các tác phẩm bán chạy nhất do tờ New York Times bình chọn.
Các tác phẩm của ông từng được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và xuất bản tại hơn 80 quốc gia, với lượng ấn bản trên 50 triệu cuốn sách trên toàn thế giới. Ông và vợ mình đã sáng lập ra quỹ Wish You Well, một tổ chức phi lợi nhuận có tôn chỉ hoạt động là góp phần quảng bá văn học và văn hóa đọc trên toàn nước Mỹ. Tác giả hiện đang sống tại bang Virginia quê hương.
Nhận xét về tác phẩm:
“Thể hiện cốt truyện mang đậm thương hiệu Baldacci với những diễn biến lắt léo và rượt đuổi hấp dẫn, cùng đoạn kết căng thẳng đến tột cùng.”
Richmond Times-Dispatch
“Một tác phẩm trinh thám độc đáo, sôi sục... cốt truyện ly kỳ, lôi cuốn và căng thẳng, đã để lại rất nhiều điều cho độc giả phải suy nghĩ sau khi đọc xong.”
Toledo Blade (OH)
“Baldacci biết chính xác những gì mà độc giả của mình muốn - chỉ vừa đủ những màn hồi hộp công nghệ cao để thư giãn vài tiếng đồng hồ trước một lò sưởi mùa đông ấm áp.”
Fort Worth Star-Telegram
“Tuyệt vời… Hạng nhất… một cuốn sách xuất sắc… quyện chặt và thấm đẫm không khí căng thẳng.”
CurledUp.com
Mời các bạn đón đọc Bí mật Núi sát nhân của tác giả David Baldacci.

Chiếc Chevy Suburban lướt nhanh trên đường. Vùng quê bang Virginia bao phủ một màn đêm tĩnh lặng. Adnan al-Rimi, gã đàn ông bốn mươi mốt tuổi đang gò người trên vô lăng tập trung vào con đường quanh co trước mặt. Vùng này có rất nhiều hươu, và Adnan hoàn toàn không muốn chứng kiến cảnh lũ thú có gạc chết tiệt này lao rầm qua kính chắn gió. Thật sự thì người đàn ông này đã quá mệt mỏi với việc bị đủ thứ tấn công. Gã nhấc một bàn tay đi găng lên khỏi vô lăng và sờ vào khẩu súng nằm trong chiếc bao dưới lần áo khoác của mình; vũ khí không chỉ là món đồ trang trí đối với Adnan, nó thực sự là một thứ bắt buộc phải có.
Bất thình lình gã vụt liếc ra ngoài cửa sổ khi nghe thấy âm thanh trên đầu.
Có hai hành khách ngồi trên băng ghế sau. Người đàn ông đang sôi nổi nói chuyện qua điện thoại di động bằng tiếng Farsi là Muhammad al-Zawahiri, một người Iran đã vào nước Mỹ ngay sau vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9. Bên cạnh hắn là một người đàn ông Afghanistan tên là Gul Khan, mới đến Mỹ được vài tháng. Khan có vóc người to lớn và lực lưỡng với cái đầu cạo trọc. Hắn mặc chiếc áo khoác rằn ri của thợ săn và đang kiểm tra khẩu súng máy của mình bằng những ngón tay nhanh thoăn thoắt. Hắn ấn tạch băng đạn vào vị trí cũ và chỉnh khóa an toàn lên chế độ điểm xạ hai viên một. Vài giọt mưa rơi xuống đập vào cửa sổ, và Khan hờ hững nhìn chúng chảy xuống thành dòng.
“Đây quả là một vùng quê tươi đẹp,” Khan nói bằng tiếng Pashto, một thứ thổ ngữ Muhammad nói được nhưng Adnan thì không rành cho lắm. “Quê tao thì ngổn ngang xác những chiếc xe tăng thời Liên Xô. Người nông dân cứ thế làm ruộng xung quanh chúng.” Hắn ngừng lại và nói thêm với vẻ mặt vô cùng hài lòng, “Và còn có cả xác xe tăng Mỹ nữa.”
Adnan chốc chốc lại liếc nhìn qua gương chiếu hậu. Gã không hề thích một người đàn ông với một khẩu súng máy ngồi sau lưng mình, dù là đồng đạo Hồi giáo đi chăng nữa. Và gã cũng không hề tin tưởng tên người Iran. Adnan sinh ra ở Saudi Arabia nhưng di cư sang Iraq khi mới là một cậu bé. Gã chiến đấu cho Iraq trong cuộc chiến tranh khủng khiếp giữa hai nước[1], và mối căm thù của gã đối với Iran vẫn còn vô cùng sâu sắc. Về mặt sắc tộc, Muhammad al-Zawahiri là người Ba Tư, không phải người Ả-rập như al-Rimi. Đây là một sự khác biệt nữa giữa hai người càng khiến cho al-Rimi không tin tưởng hắn.
Muhammad kết thúc cú điện thoại, lau một vết bùn bẩn ra khỏi một trong hai chiếc ủng cao bồi kiểu Mỹ của mình, kiểm tra giờ trên chiếc đồng hồ đeo tay cực kỳ đắt tiền rồi nằm ngửa ra ghế và mỉm cười châm một điếu thuốc. Hắn nói điều gì đó bằng tiếng Farsi và Khan cười phá lên. Hơi thở của tên người Afghanistan to xác nồng nặc mùi hành.
Adnan nắm chặt vô lăng hơn. Gã chưa bao giờ là một kẻ cẩu thả, và Adnan không ưa thái độ bỗ bã của gã người Iran về những vấn đề nghiêm túc. Vài giây sau Adnan lại nhìn ra ngoài cửa sổ.
Rõ ràng là Muhammad cũng đã nghe thấy âm thanh đó. Hắn hạ cửa sổ xuống và thò đầu ra ngoài, ngửa mặt nhìn lên bầu trời đầy mây. Khi nhìn thấy những ánh đèn đỏ lập lòe trên đầu, hắn quát to lên với Adnan, gã này gật đầu và đạp cần ga; cả hai người đàn ông ngồi sau liền cài chặt dây an toàn lại.
Chiếc Chevy vun vút lướt đi trên con đường miền quê uốn lượn, nghiêng ngả quanh một số khúc cua gấp đến nỗi hai người ngồi sau phải nắm chặt lấy tay vịn bằng cả mười ngón tay. Tuy nhiên, dù có là chiếc xe nhanh nhất trên thế giới thì cũng không thể chạy nhanh hơn một chiếc trực thăng trên một con đường quanh co.
Lại mở miệng bằng tiếng Farsi, Muhammad ra lệnh cho Adnan tấp vào bên dưới mấy gốc cây và chờ đợi, xem liệu chiếc trực thăng có bay tiếp không. Tiếp tục bằng tiếng Farsi, hắn nói: “Hay là tai nạn giao thông, hả Adnan? Có thể là máy bay trực thăng cấp cứu y tế?”
Adnan nhún vai. Gã nói tiếng Farsi không tốt lắm, và nhiều lúc những nét nghĩa của thứ ngôn ngữ đó cứ trôi tuột khỏi đầu gã. Tuy nhiên, không cần phải là một nhà ngôn ngữ học mới cảm nhận được sự cấp bách trong giọng nói của tên đồng bọn của gã. Gã tấp xe vào dưới một rặng cây, cả ba gã đàn ông bước ra rồi nằm nép xuống dưới xe. Khan chĩa khẩu súng máy của hắn lên trời và căng thẳng nhìn quanh. Trong thoáng chốc tưởng chừng chiếc trực thăng đã bay đi, nhưng rồi một ánh đèn pha xuyên qua vòm lá của rặng cây ngay phía trên đầu chúng.
Từ tiếp theo Muhammad nói bằng tiếng Anh: “Chó chết!” Hắn gật đầu với Adnan, ra lệnh cho gã tìm một chỗ quan sát rõ hơn.
Gã người Iraq lom khom chạy đến bìa của rặng cây và thận trọng quan sát phía trên. Chiếc trực thăng đang bay lòng vòng trên đầu cách mặt đất khoảng 60 foot[2]. Adnan quay lại chỗ những tên đồng bọn của mình, báo cáo lại những gì gã vừa thấy.
“Có thể chúng đang tìm một chỗ để hạ cánh,” gã nói thêm.
“Chúng ta có khẩu súng phóng lựu nào trong xe không?” Muhammad hỏi, giọng hơi run rẩy. Hắn vẫn quen với vai trò là những bộ óc đằng sau các loại chiến dịch này hơn là làm một tên lính bộ binh trực tiếp bắn giết - và thường bỏ mạng trong quá trình đó.
Adnan lắc đầu, “Bọn tôi không nghĩ là đêm nay chúng ta lại cần đến một khẩu súng phóng lựu.”
“Chó chết,” Muhammad lại rủa. “Nghe này,” hắn rít lên. “Tao nghĩ là chúng sắp hạ cánh.” Vòm cây bắt đầu lay động dưới cánh quạt máy bay.
Adnan gật đầu với hai tên đồng bọn. “Đó chỉ là một chiếc trực thăng hai người thôi mà. Chúng ta có những ba người,” gã cứng cáp nói thêm. Gã trừng trừng nhìn tên cầm đầu của mình. “Lấy súng ra đi, Muhammad, và sẵn sàng sử dụng. Chúng ta sẽ không ra đi trong yên lặng. Chúng ta sẽ mang theo mấy tên Mỹ.”
“Đồ ngu,” Muhammad chửi. “Chẳng lẽ mày nghĩ là chúng chưa gọi cho bọn khác hay sao? Đơn giản là chúng sẽ giữ cho chúng ta nằm chết dí ở đây và đợi viện binh đến.”
“Giấy tờ giả của chúng ta đều hợp lệ,” Adnan phản đối. “Những thứ tốt nhất mà tiền có thể mua được.”
Tên người Iran nhìn Adnan như thể gã đã hóa điên. “Chúng ta là những tên Ả-rập có vũ trang ở ngay giữa bọn nông dân chăn nuôi lợn bang Virginia. Chúng sẽ lấy dấu vân tay của tao và chỉ cần vài giây là biết tao thực sự là ai. Chúng ta mắc bẫy rồi,” hắn nói thêm với một tiếng rít nữa. “Tại sao lại có thể như thế này? Tại sao?”
Adnan chỉ vào tay gã kia. “Có lẽ là vì chiếc điện thoại mà anh suốt ngày gọi. Chúng có thể lần theo dấu vết những thứ như thế này. Tôi đã cảnh báo anh về điều này từ trước rồi mà.”
“Ý chí của Đấng Allah sẽ được thực hiện,” Gul Khan vừa nói vừa chỉnh chốt an toàn trên khẩu súng về chế độ tự động, có vẻ như đã sẵn sàng chiều theo ý nguyện của Chúa.
Muhammad trừng mắt nhìn hắn với vẻ ngờ vực. “Nếu lúc này mà chúng ta bị chặn lại, kế hoạch của chúng ta sẽ không thành công. Mày có nghĩ là Chúa muốn như thế không? Có hay không?” Hắn ngừng lại và hít một hơi thật sâu để bình tĩnh lại. “Đây là những gì tao muốn hai thằng mày làm. Những gì mà bọn mày phải làm!” Hắn chỉ một ngón tay run rẩy lên những vòm cây đang lay động và nói bằng một giọng dứt khoát, “Tao muốn chúng mày kìm chân chúng để tao tìm cách tẩu thoát. Có một con đường khác xuyên khoảng nửa dặm qua những rặng cây này về phía Tây. Đến đó tao có thể gọi cho Marwan tới và đón tao bằng một chiếc xe khác. Nhưng bọn mày phải giữ chân chúng lại. Bọn mày phải làm như vậy!”
Adnan hằm hằm nhìn tên cầm đầu của mình. Qua nét mặt của gã, nếu có một từ dịch theo đúng nghĩa đen của từ “chó má” trong tiếng mẹ đẻ của mình thì chắc chắn Adnan cũng đã dùng rồi.
“Đi đi, nào, giữ chân chúng lại, đó là sự hy sinh của bọn mày cho sự nghiệp,” Muhammad vừa gào lên vừa bắt đầu lùi chạy ra xa.
“Nếu bọn tôi phải chết ở đây trong khi anh tẩu thoát thì hãy đưa súng của anh cho tôi,” Adnan cay đắng nói. “Đằng nào thì anh cũng không cần dùng đến nó.”
Tên người Iran rút khẩu súng ngắn của mình ra và quẳng nó cho Adnan.
Tên Khan lực lưỡng quay mặt về phía chiếc trực thăng và mỉm cười. “Mày thấy kế hoạch này thế nào, Adnan?” hắn nói qua vai mình. “Ở nước tao, bắn vào cánh quạt ở đuôi của chúng trước khi chúng có thể hạ cánh là một chiến thuật rất hiệu quả chống lại bọn Mỹ. Thân máy bay sẽ vỡ vụn như một cành cây khô khi chúng rơi xuống đất.”
Viên đạn bắn trúng ngay giữa gáy hắn, điều mỉa mai là sống lưng của Khan gẫy gập như ai đó bẻ gẫy một cành cây khô, và tên người Afghanistan lực lưỡng lăn ra chết.
Adnan quay ngay khẩu súng ngắn ra khỏi nạn nhân của mình và chĩa thẳng nó vào Muhammad, tên này, sau khi chứng kiến hành động tấn công phản bội, đã bắt đầu quay người chạy. Tuy nhiên, hắn không phải là kẻ nhanh chân cho lắm, và đôi ủng cao bồi mà hắn nâng niu rõ ràng là không phải được làm ra để chạy. Adnan đuổi kịp hắn khi Muhammad ngã lộn nhào vì vấp phải một thân cây mục.
Muhammad nằm ngửa nhìn đồng bọn của mình trong khi Adnan chĩa khẩu súng ngắn của chính Muhammad vào hắn. Muhammad tuôn ra một tràng chửi rủa thậm tệ, sau đó lại van xin bằng tiếng Ả-rập và cuối cùng là tiếng Anh: “Adnan, tôi cầu xin anh đấy. Tại sao? Tại sao?”
Adnan trả lời bằng tiếng Ả-rập, “Mày buôn ma túy, theo như lời mày nói thì là để lấy tiền ủng hộ sự nghiệp. Nhưng mày lại dùng để mua sắm đôi ủng cao bồi quý giá và những đồ trang sức lòe loẹt của mày hơn là cho sự nghiệp của đạo Hồi, Muhammad. Mày đã lầm đường lạc lối rồi. Giờ thì mày là người Mỹ. Nhưng đó không phải lý do tại sao tao lại làm thế này.”
“Vậy thì hãy nói tại sao đi!” tên người Iran gào lên.
“Đây là sự hy sinh của mày cho một mục đích vĩ đại hơn.” Adnan không hề mỉm cười, nhưng vẻ đắc thắng hiện lên rất rõ trong đôi mắt gã. Gã bắn một phát rất gần vào thái dương bên trái của gã đàn ông, và chẳng còn lời cầu xin bằng bất kỳ thứ tiếng nào phát ra từ tên người Iran nữa. Adnan áp chặt tay Muhammad vào khẩu súng, rồi đặt nó xuống và nhanh chóng rảo bước quay lại chỗ bãi đất trống, nơi chiếc trực thăng đã hạ cánh và một bên cửa hành khách đã mở ra. Adnan đã nói dối. Thật ra đây là chiếc trực thăng bốn người. Hai người đàn ông bước ra. Họ là những người phương Tây với vẻ mặt đầy sát khí, và hai người trong bọn họ khiêng theo thứ gì đó. Adnan dẫn họ quay trở lại chỗ xác của Muhammad sau khi dừng lại để lấy ra một khẩu súng bắn đạn ghém ở chỗ chiếc Suburban.
Thứ mà hai gã đàn ông khiêng theo là một cái túi xác. Họ mở khóa chiếc túi. Bên trong là một người đàn ông, một người đàn ông trông rất giống Adnan và ăn mặc giống hệt gã. Người đàn ông đang nằm bất tỉnh nhưng vẫn còn thở. Họ dựng anh ta ngồi dựa vào một gốc cây nơi tên người Iran đã chết đang nằm. Adnan đưa chiếc ví của mình cho một trong hai người đàn ông và gã này nhét nó vào trong túi áo khoác của người đàn ông bất tỉnh. Rồi gã đàn ông kia lấy khẩu súng từ tay Adnan, áp chặt hai bàn tay của tên Muhammad đã chết vào nó và chĩa thẳng vào người đàn ông bất tỉnh rồi bắn một phát vào đầu anh ta, ngay lập tức một mảng mặt anh ta bị thổi bay. Một người sống thành một xác chết, chỉ trong vài giây. Adnan là một chuyên gia về vấn đề này, và không phải vì gã muốn thế. Có ai lại đi chọn một cái nghề như vậy, có chăng là kẻ điên?
Một phút sau, Adnan và hai người đàn ông chạy thẳng ra chỗ chiếc trực thăng, trèo vào trong; chiếc máy bay lập tức cất cánh. Hoàn toàn không có phù hiệu nào trên thân hoặc đuôi của chiếc trực thăng, và không ai trong số những người đàn ông mặc đồng phục. Thực tế là họ hầu như không nhìn đến Adnan khi gã tự ổn định mình trên một trong những chiếc ghế sau và thắt dây an toàn lên người. Cứ như thể họ còn đang cố quên đi sự có mặt của gã ở đó.
Adnan không còn nghĩ gì đến những tên cùng đi đã chết của mình. Tâm trí của gã hướng tới một vinh quanh lớn lao hơn nhiều đang chào đón gã. Nếu thành công, nhân loại sẽ còn nói về nó trong nhiều thế hệ sắp tới một cách nể phục. Giờ thì Adnan al-Rimi chính thức là một kẻ đã chết. Tuy nhiên gã lại càng trở nên có giá trị hơn bao giờ hết.
Chiếc trực thăng bay theo lộ trình về phía Bắc, trên đường tới phía Tây bang Pennsylvania. Tới một thị trấn có tên gọi là Brennan. Một phút sau bầu trời vùng quê Virginia lại trở nên tĩnh lặng trừ tiếng mưa rơi nhè nhẹ đang nhẩn nha cuốn trôi đi những vũng máu.
Chú Thích:

[1] Ý nói chiến tranh Iran-Iraq từ năm 1980 đến năm 1988 (ND).
[2] Foot: Đơn vị đo chiều dài phổ biến ở Mỹ, Anh. Tương đương 30,48cm.

Ông đang chạy thục mạng, đạn đang găm vào mọi thứ xung quanh ông. Ông không thể nhìn thấy kẻ đang bắn, và ông cũng không có vũ khí để bắn trả. Người phụ nữ bên cạnh là vợ ông. Cô con gái bé bỏng bên cạnh bà là con gái họ. Một viên đạn cắt qua cổ tay vợ ông, và ông nghe thấy tiếng bà thét lên. Rồi viên đạn thứ hai tìm thấy mục tiêu của nó và mắt vợ ông khẽ nhướng lên. Đó là lúc đồng tử mắt giãn nở chỉ trong một phần của giây báo hiệu cái chết ngay cả trước khi bộ não của con người kịp nhận ra. Trong khi vợ ông đổ gục xuống, ông lao tới tới bên cô con gái của mình để che cho con bé. Những ngón tay của ông vươn về phía con bé nhưng ông bắt trượt. Bao giờ cũng trượt.
Ông choàng tỉnh và ngồi thẳng dậy, mồ hôi chảy ròng ròng xuống má ông trước khi len lỏi xuống bộ râu quai nón dài và xồm xoàm. Ông rót chút nước từ một cái chai lên khắp mặt mình, để mặc những giọt nước mát đẩy trôi đi nỗi đau bức bối của cơn ác mộng liên tục quay về.
Khi đứng lên khỏi giường, chân ông va phải chiếc hộp cũ mà ông vẫn để cạnh đó. Ông ngần ngừ rồi mở nắp hộp ra. Bên trong là một cuốn album ảnh rách tả tơi. Ông chăm chú nhìn lần lượt từng bức một, mấy bức ảnh ít ỏi của người phụ nữ đã từng là vợ mình. Rồi ông chuyển sang những bức ảnh chụp con gái mình; lúc còn là đứa trẻ sơ sinh và lúc chập chững biết đi. Sau đó thì ông không còn bức ảnh nào của con bé nữa. Ông sẵn sàng đánh đổi cả cuộc đời mình để được nhìn thấy con bé, giờ đã lớn thành một thiếu nữ dù chỉ là trong giây lát. Không một ngày nào trôi qua mà ông không tự hỏi chuyện gì đã xảy ra.
Ông nhìn quanh nội thất bài trí đơn sơ của ngôi nhà nhỏ. Đáp lại cái nhìn của ông là những chiếc giá bụi bặm chất đầy sách về một loạt các lĩnh vực khác nhau. Bên cạnh khung cửa sổ rộng trông ra những khoảng không tối om là một chiếc bàn làm việc cũ kỹ chất đầy những tờ báo chi chít nét chữ sắc nét của ông. Một chiếc lò sưởi bằng đá đen đúa cung cấp phần lớn hơi ấm mà ông cần, và một căn bếp nhỏ nơi ông chuẩn bị những bữa ăn đạm bạc của mình. Một phòng tắm nhỏ đáp ứng nốt những tiện nghi sinh hoạt khiêm tốn của ông.
Ông kiểm tra đồng hồ, lấy ra một cặp ống nhòm từ chiếc bàn gỗ ọp ẹp cạnh giường và cầm lấy một chiếc ba lô vải sờn rách nằm trên bàn làm việc. Ông nhét cặp ống nhòm và vài tờ báo vào trong ba lô rồi bước ra ngoài.
Những tấm bia mộ cũ kỹ hiện ra lờ mờ trước mặt ông, ánh trăng bàng bạc loang trên mặt đá đầy rêu dầm sương dãi nắng. Khi ông bước từ hiên trước xuống mặt cỏ, bầu không khí trong trẻo giúp mang đi cảm giác sốt bừng bừng trong đầu ông sau cơn ác mộng, nhưng cảm giác đau nhói trong tim ông thì vẫn còn. Ơn trời, đêm nay ông còn có một nơi để tới, dù là vẫn còn chút thời gian rỗi. Và khi có chút thời gian rảnh rỗi, bao giờ ông cũng chỉ đến một nơi.
Ông bước qua những cánh cổng sắt đồ sộ bằng sắt chế tác với những hàng chữ cuộn thông báo rằng đây là Nghĩa trang Mt. Zion, nằm ở phía Tây Bắc thủ đô Washington, D.C, và thuộc sở hữu của Nhà thờ Hội Giám lý Hiệp nhất Mt. Zion gần đó. Nhà thờ này là giáo đoàn lâu đời nhất của người da đen trong thành phố, được tổ chức từ năm 1816 bởi những người không muốn tham gia thể hiện đức tin của mình tại một nhà thờ nguyện phân biệt đối xử, đi chệch khỏi tinh thần bình đẳng trong Kinh thánh. Khoảnh đất rộng ba mẫu Anh[3] cũng từng là một chặng dừng chân quan trọng của Đường sắt ngầm[4], dẫn dắt những người nô lệ từ miền Nam đến với tự do ở miền Bắc trong thời Nội chiến.
Ngay sát một bên nghĩa trang là Nhà Dumbarton đồ sộ, trụ sở của Hiệp hội Quốc gia Mỹ Những Quý bà thời thuộc địa, còn phía bên kia là một tòa nhà để ở bằng gạch xây thấp. Suốt hàng thập kỷ nay nghĩa trang lịch sử này đã rơi vào quên lãng, với những bia mộ xiêu vẹo và cỏ dại ngập đến ngang hông. Sau đó nhà thờ đã cho quây nghĩa trang lại bằng hàng rào và xây ngôi nhà nhỏ dành cho người quản trang.
Gần đó là Nghĩa trang Oak Hill lớn hơn nhiều và cũng nổi tiếng hơn nhiều, nơi an nghỉ cuối cùng của rất nhiều nhân vật tên tuổi. Tuy nhiên, ông vẫn thích Mt. Zion hơn cùng với vị trí của nó trong lịch sử như là một cánh cổng dẫn đến tự do.
Ông đã được thuê làm người cai quản nghĩa trang này cách đây vài năm, và ông thực hiện công việc của mình rất nghiêm túc, luôn bảo đảm những bãi đất và khu mộ chỉn chu, ngăn nắp. Ngôi nhà nhỏ đi kèm với công việc này thực sự là ngôi nhà đầu tiên của ông trong suốt một thời gian dài. Nhà thờ trả lương cho ông bằng tiền mặt mà không cần đến thủ tục giấy tờ lằng nhằng gì hết; với lại đằng nào thì ông cũng không kiếm được nhiều đến mức phải đóng thuế thu nhập. Thực tế, ông chỉ kiếm được vừa đủ để duy trì cuộc sống. Mặc dù vậy, đây vẫn là công việc tốt nhất mà ông từng có.
Ông đi về phía Nam phố 27, bắt tàu điện ngầm và một lát sau ông xuống nơi chỉ cách khoảng một hai khối phố tính từ nơi có thể coi là “ngôi nhà thứ hai” của mình. Khi bước qua chiếc lều nhỏ nơi ít nhất về danh nghĩa cũng thuộc về mình, ông rút cặp ống nhòm ra khỏi chiếc ba lô và dưới bóng một thân cây ông dùng cặp ống nhòm để quan sát tòa nhà bên kia đường. Ông đã mang theo bên mình cặp ống nhòm mà chính phủ trang bị sau khi kết thúc quãng thời gian phục vụ tổ quốc đầy tự hào và trước khi hoàn toàn mất niềm tin vào những người lãnh đạo. Tên thật của mình ông cũng không dùng đến cả mấy chục năm nay. Lâu nay ông vẫn được gọi là Oliver Stone[5], một cái tên mà ông chọn với lý do nó có thể được coi là một hành động thách thức đầy trắng trợn.
Ông có sự gắn kết mật thiết với những tác phẩm huyền thoại của vị đạo diễn điện ảnh bất kính, vốn luôn thách thức cách diễn giải “chính thức” về lịch sử, một lịch sử thường là hư cấu nhiều hơn sự thật. Lấy tên của đạo diễn đó làm tên của mình xét cho cùng cũng là phù hợp, vì Oliver Stone này cũng rất đỗi quan tâm đến sự thật “thực sự”.
Qua ống nhòm, ông tiếp tục theo dõi những hoạt động ra vào của ngôi nhà vốn chưa bao giờ khiến ông ngừng bị mê hoặc. Rồi Stone vào trong chiếc lều nhỏ của mình, và, sử dụng một chiếc đèn pin cũ, ông tỉ mỉ ghi lại những điều quan sát được vào một những tờ ghi chép mà ông mang theo trong ba lô của mình. Ông cất giữ một số tờ ghi chép này ở ngôi nhà nhỏ của mình và rất nhiều nữa ở những nơi khác do ông bố trí. Ông không cất thứ gì ở trong lều bởi vì ông thừa biết rằng nó thường xuyên bị kiểm tra. Ông luôn luôn mang theo trong ví của mình giấy phép chính thức cho phép ông được dựng lều ở đây và có quyền biểu tình ngay phía trước tòa nhà bên kia đường. Ông thực hiện cái quyền đó một cách cực kỳ nghiêm túc.
Trở ra ngoài, ông theo dõi những người lính gác đang kè kè súng ngắn bán tự động trong bao, tay cầm súng tiểu liên hoặc thỉnh thoảng lại nói vào bộ đàm. Tất cả họ đều biết ông và đều tỏ ra nhã nhặn một cách cảnh giác, giống như con người ta vẫn tỏ ra đề phòng với những người có thể bất thình lình nhảy bổ vào mình. Stone bao giờ cũng rất chú ý đến việc thể hiện lòng kính trọng đối với họ. Bao giờ bạn cũng phải tỏ ra cung kính với những người vác súng máy. Oliver Stone, dù không hẳn nằm trong dòng chảy chính của cuộc sống, cũng không ngoại lệ.
Ông trao đổi ánh mắt với một trong những người lính gác, anh này gọi với lại, “Này, Stone, tôi nghe nói Humpty Dumpty[6] bị đẩy rồi, bỏ qua đi.”
Vài người khác cười phá lên khi nghe câu đùa này, và Stone cũng nhếch mép mỉm cười. “Đã nghe rõ,” ông đáp lại. Ông đã từng chứng kiến chính anh chàng này hạ gục một người chỉ cách chỗ ông đang đứng có vài bước chân. Nói cho công bằng, tên kia đã nổ súng vào anh ta trước.
Ông xốc chiếc quần sờn rách của mình lên chặt hơn quanh cái bụng mỏng lép, vuốt ngược lại mái tóc muối tiêu và dừng lại một lúc để buộc lại sợi dây đang chỉ chực tung ra khỏi chiếc giầy bên phải của mình. Ông là một người đàn ông cao và rất gầy, chiếc áo sơ mi thì quá to trong khi chiếc quần thì quá ngắn. Và đôi giầy, hừm, đôi giầy lúc nào cũng là vấn đề.
“Đó là quần áo mới mà ông cần,” một giọng phụ nữ vang lên trong bóng tối.
Ông ngẩng lên và nhận ra người nói đang đứng dựa vào tượng của Thiếu tướng Comte de Rochambeau, một vị anh hùng trong Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Ngón tay cứng cáp của Rochambeau đang chỉ thẳng vào cái gì đó, Stone chưa bao giờ biết là cái gì. Rồi đến một người Phổ, Nam tước Steuben, ở phía Tây Bắc, và một người Ba Lan, tướng Kosciuszko, canh gác mạn Đông Bắc của cái công viên rộng bảy mẫu Anh mà Stone đang đứng trong đó lúc này. Những bức tượng này lần nào cũng làm khuôn mặt ông xuất hiện một nụ cười. Oliver vô cùng thích thú khi ở quanh những nhà cách mạng.
“Đó thực sự là quần áo mới mà ông cần, Oliver,” người phụ nữ vừa nhắc lại vừa gãi gãi khuôn mặt sạm nắng của mình. “Và cả cắt tóc nữa, đúng rồi. Oliver, đó là mọi thứ mới mà ông cần.”
“Tôi cũng biết là thế rồi,” ông khẽ trả lời. “Nhưng tất cả cũng còn tùy thuộc vào thứ tự ưu tiên của từng người, tôi nghĩ thế, và thật may mắn, sự phù phiếm chưa bao giờ là ưu tiên của tôi cả.”
Người đàn bà này tự xưng là Adelphia. Bà có một giọng nói mà ông chưa bao giờ xác định được một cách chính xác là ở đâu, mặc dù chắc chắn là ở châu Âu, có lẽ là thuộc nhóm Slavic. Bà đặc biệt rất nghiệt ngã với những động từ của mình, khi chèn chúng vào những vị trí rất oái oăm trong câu khi nói. Bà có dáng người cao gầy với mái tóc dài màu đen điểm những sợi muối tiêu. Adelphia còn có đôi mắt sưng mọng, ủ rũ cùng cái miệng hầu như lúc nào cũng nghiến lại thành một tiếng gầm gừ, mặc dù nhiều lúc Stone cũng nhận thấy bà tốt bụng theo một kiểu bất đắc dĩ. Thật khó đoán được tuổi của bà, nhưng chắc chắn là bà ít tuổi hơn ông. Tấm biểu ngữ dài 6 foot đứng chơ vơ bên ngoài chiếc lều của bà tuyên bố:
MỘT BÀO THAI LÀ MỘT CUỘC SỐNG. NẾU BẠN KHÔNG TIN ĐIỀU ĐÓ, BẠN SẼ ĐI THẲNG XUỐNG ĐỊA NGỤC.
Hầu như chẳng có gì có thể gọi là mập mờ khi nói về Adelphia. Trong cuộc sống bà chỉ nhìn thấy những đường màu đen và trắng rạch ròi. Đối với bà, những tông màu xam xám là không tồn tại, trong khi đó, đây chính là thành phố dường như đã phát minh ra gam màu đó. Tấm biển nhỏ bên ngoài chiếc lều của Oliver Stone chỉ ghi rất giản dị:
TÔI MUỐN SỰ THẬT.
Mặc dù vậy, ông vẫn chưa tìm được “sự thật” sau suốt ngần ấy năm. Quả thật, liệu đã bao giờ có thành phố nào mà sự thật lại khó phát hiện hơn là cái thành phố nơi ông đang đứng lúc này không chứ?
“Tôi đi lấy cà phê đây, Oliver. Ông có muốn uống một chút không? Tôi có tiền mà.”
“Không, cám ơn bà, Adelphia. Tôi còn phải tới chỗ này nữa.”
Bà cau có, “Một cuộc gặp khác là nơi ông tới đấy à? Nó có ích gì cho ông đâu cơ chứ? Ông có còn trẻ trung gì nữa đâu và ông không nên đi bộ trong đêm. Đây là một nơi nguy hiểm.”
Ông liếc nhìn những người lính vũ trang. “Thật ra, tôi nghĩ là ở đây khá an toàn.”
“Nhiều người cầm súng mà ông bảo là an toàn ư? Tôi thấy ông bị điên rồi,” bà đáp lại với vẻ cáu kỉnh.
“Có lẽ bà nói đúng và cám ơn vì sự quan tâm của bà,” ông lịch sự nói. Adelphia lúc nào chẳng nhăm nhăm muốn tranh cãi và tìm kiếm bất kỳ kẽ hở nào để nhảy bổ vào. Đã từ lâu ông nhận ra rằng đừng bao giờ cho người phụ nữ này một cơ hội.
Adelphia trừng trừng nhìn ông giận dữ trong giây lát rồi hầm hầm bỏ đi. Trong lúc đó, Stone liếc nhìn vào một tấm biển bên cạnh tấm biển của ông với dòng chữ:
CHÚC MỘT NGÀY TẬN THẾ TỐT LÀNH.
Đã lâu lắm rồi Stone không nhìn thấy người đàn ông đã dựng tấm biển đó.
“Có chứ, chúng ta sẽ như vậy chẳng phải sao?” ông lầm bầm, và rồi tâm trí của ông chợt bị hút vào hoạt động bất ngờ phía bên kia phố. Cảnh sát và xe tuần tra có biển hiệu đang tập trung lại thành từng nhóm. Stone còn nhìn thấy những nhân viên thực thi luật pháp chiếm lĩnh các vị trí ở các giao lộ khác nhau. Bên kia phố những cánh cổng bằng thép đen sì lừng lững có thể chịu được cú húc của một chiếc xe tăng M-1 vừa mở và một chiếc Suburban lao vọt ra, ánh đèn màu xanh và đỏ trong khung lưới nhoang nhoáng.
Stone ngay lập tức hiểu chuyện gì đang xảy ra, ông vội vàng bước dọc con phố về phía giao lộ gần nhất. Trong khi ông đang quan sát bằng chiếc ống nhòm của mình, đoàn xe hộ tống cầu kỳ nhất thế giới đổ ra trên con phố 17. Giữa đội hình hùng hậu này là chiếc limousine độc đáo nhất từng được chế tạo.
Đó là một chiếc Cadillac phiên bản DTS được trang bị công nghệ liên lạc và định vị tân tiến nhất, và nó có thể chở sáu hành khách một cách cực kỳ thoải mái trong phần nội thất bằng da hảo hạng màu xanh bóng với những điểm nhấn bằng gỗ tinh xảo. Chiếc limousine sở hữu những chiếc ghế ngả gắn thiết bị cảm biến tự động và một dàn máy tính có thể gấp lại, đồng thời hoàn toàn kín gió với hệ thống cung cấp dưỡng khí bên trong phòng trường hợp lượng ôxy bên ngoài không bảo đảm. Con dấu của Tổng thống được thêu trên chính giữa chiếc ghế sau, và những hình con dấu Tổng thống cũng được gắn ở mặt trong và mặt ngoài của những cánh cửa phía sau. Trên tấm chắn phía trước, bên phải là quốc kỳ Mỹ. Lá cờ của Tổng thống tung bay trên một chiếc cán cắm trên tấm chắn phía trước bên phải, báo hiệu cho biết nhà lãnh đạo tối cao của nước Mỹ thực sự đang ở bên trong.
Phần thân bên ngoài của chiếc xe được chế tạo bằng những tấm thép chống tên lửa đạn đạo, còn cửa sổ được làm bằng kính polycarbonate dày bằng cả cuốn danh bạ điện thoại mà không viên đạn nào có thể xuyên qua. Chiếc xe chạy trên bốn chiếc lốp tự vá và trưng ra tấm biển số hai số không. Lượng tiêu thụ xăng của chiếc xe thì quả là khủng khiếp, nhưng giá thành mười triệu đô la của nó còn bao gồm cả một dàn đĩa CD mười tầng với âm thanh lập thể. Thật không may, với những người muốn mặc cả, đừng bao giờ mong có chuyện hạ giá. Chiếc xe được gọi một cách âu yếm là Quái vật. Chiếc limousine chỉ có đúng hai khuyết điểm được biết đến: nó không thể bay và không thể nổi trên mặt nước.
Một ánh đèn được bật lên bên trong Quái vật, và Stone nhìn thấy người đàn ông xem xét mấy tờ tài liệu, những tài liệu có tầm quan trọng đặc biệt, không việc gì phải nghi ngờ. Một người đàn ông khác ngồi cạnh ông ta. Stone không khỏi mỉm cười. Các đặc vụ chắc phải phát điên lên vì ánh đèn. Ngay cả với lớp vỏ thép và kính chống đạn dày cộp người ta vẫn không được tự biến mình thành một mục tiêu ngon ăn đến vậy.
Chiếc limousine chạy chậm lại khi băng qua giao lộ, và Stone hơi căng người một chút khi nhìn thấy người đàn ông liếc về phía mình. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi vị Tổng thống của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, James H. Brennan, và một công dân đầu óc đầy âm mưu Oliver Stone nhìn thẳng vào mắt nhau. Vị Tổng thống nhăn mặt và nói gì đó. Người đàn ông bên cạnh ông ta ngay lập tức tắt đèn đi. Stone lại mỉm cười. Vâng, lúc nào tôi cũng sẽ ở đây. Lâu hơn cả hai các người.
Người đàn ông ngồi cạnh Tổng thống Brennan cũng quá quen thuộc đối với Stone. Ông ta là Carter Gray, người được gọi là Sa hoàng tình báo, một vị trí cấp bộ vừa được thành lập cho phép ông ta quyền kiểm soát chặt chẽ khoản ngân sách 50 tỷ đô la và đội ngũ nhân sự tinh nhuệ lên đến 120 nghìn người ở tất cả mười lăm cơ quan tình báo của nước Mỹ. Đế chế của ông ta bao gồm cả hệ thống vệ tinh do thám, đội ngũ chuyên gia mật mã của NSA[7], Cục Tình báo Quốc phòng của Lầu Năm Góc, hay còn gọi là DIA, và thậm chí là cả cơ quan CIA khả kính, một cơ quan mà Gray từng có thời lãnh đạo. Có vẻ như mấy tay ở Langley[8] tưởng rằng Gray sẽ tỏ ra ưu ái và tôn kính họ. Nhưng thực ra cả hai đều không. Bởi vì Gray cũng đã từng là Bộ trưởng Quốc phòng, nên ai cũng đinh ninh là ông ta sẽ thể hiện lòng trung thành với Lầu Năm Góc - vốn là nơi ngốn đến tám mươi xu trong mỗi đô la chi cho tình báo. Sự đinh ninh đó cũng hóa ra là hoàn toàn sai lầm. Rõ ràng là Gray biết rõ nơi tất cả những xác chết được chôn và đã sử dụng điều đó để uốn cả hai cơ quan theo ý mình.
Stone không hề tin rằng một người đàn ông, một người trần mắt thịt, lại có thể nhiều quyền lực đến thế, càng chắc chắn không phải là một người như Carter Gray. Stone đã từng biết rất rõ con người này từ hàng chục năm trước, mặc dù tất nhiên bây giờ thì Gray không thể nào nhận ra người bạn cũ của mình. Nhiều năm trước thì chắc hẳn đã là một câu chuyện khác, đúng không, ngài Gray?
Chiếc ống nhòm đột nhiên bị giằng khỏi tay ông, Stone trừng mắt nhìn người lính gác mặc sắc phục tay đang ôm một khẩu súng máy.
“Nếu ông còn lôi những cái này ra để theo dõi ông ấy một lần nữa, Stone, chúng sẽ đi tong đấy, ông hiểu chứ? Và nếu không phải là vì chúng tôi đã biết ông quá rõ, thì chúng đã đi tong ngay bây giờ rồi.” Người đàn ông ném cặp ống nhòm dã chiến cũ kỹ lại vào tay Stone rồi bước đi.
“Đơn giản là tôi đang thực hiện quyền theo hiến pháp của tôi thôi, thưa ngài sĩ quan,” Stone trả lời bằng giọng rất trầm mà ông biết là tay lính gác không thể nghe thấy. Ông vội cất cặp ống nhòm của mình và bước lùi trở lại vào trong bóng tối. Xin nhắc lại, chớ có dại mà tranh cãi với những kẻ không có khiếu hài hước mang vũ khí tự động. Stone buông ra một tiếng thở dài. Cuộc đời ông ngày nào cũng là một sự thăng bằng đầy bấp bênh.
Ông trở lại lều của mình, mở ba lô ra và dùng chiếc đèn pin, đọc qua một loạt những tin tức mà ông đã cắt ra từ các tờ báo và tạp chí rồi dán chúng lên các trang ghi chép của mình. Đó là những tin tức theo dõi những hành động của Carter Gray và Tổng thống Brennan: một dòng tít chạy: “Sa hoàng tình báo lại ra tay”, một dòng tít khác thì viết: “Brennan và Gray tạo thành một cặp bài trùng”.
Tất cả đã diễn ra thật chóng vánh. Sau nhiều lần dùng dằng, Quốc hội bắt đầu tổ chức lại một cách mạnh mẽ cộng đồng tình báo Mỹ và cơ bản là đặt niềm tin hoàn toàn vào Carter Gray. Trên cương vị Bộ trưởng tình báo, Gray phụ trách Trung tâm Tình báo Quốc gia, hay gọi tắt là NIC. Sứ mệnh được quy định của trung tâm này là giữ cho nước Mỹ được an toàn, tránh khỏi các cuộc tấn công ở cả bên trong lẫn bên ngoài biên giới của mình. An toàn bằng mọi cách cần thiết có lẽ là điều khoản cốt lõi bất thành văn của sứ mệnh này.
Tuy nhiên, màn khởi đầu cho nhiệm kỳ của Gray hầu như không có gì là tương xứng với bản lý lịch đầy ấn tượng của ông ta: một loạt những vụ đánh bom liều chết ở các khu vực đô thị với số thương vong khổng lồ, hai vụ ám sát những nhân vật quyền cao chức trọng nước ngoài đến thăm nước Mỹ và sau đó là một cuộc tấn công trực tiếp nhưng bất thành vào Nhà Trắng. Bất chấp việc nhiều nhân vật trong Quốc hội kêu gọi ông ta từ chức và từ bỏ quyền lực của chức vụ Bộ trưởng, Gray vẫn giữ được sự ủng hộ từ vị Tổng thống của mình. Và nếu những vị trí quyền lực ở Washington được ví như những thảm họa thiên nhiên, thì Tổng thống chính là sự hòa quyện của một cơn siêu bão và một trận động đất.
Và rồi dần dần, gió bắt đầu đổi chiều. Một loạt những âm mưu tấn công khủng bố trên đất Mỹ đã bị chặn đứng. Những tên khủng bố đang bị tiêu diệt và bắt giữ với tốc độ ngày càng tăng. Vốn không thể nào xâm nhập nổi vào bên trong những tổ chức này, thì nay cộng đồng tình báo Mỹ cũng bắt đầu tấn công kẻ thù ngay từ bên trong lòng của chúng và triệt phá khả năng của kẻ thù trong việc tấn công Mỹ cùng các đồng minh. Điều dễ hiểu là Gray đã nhận về hầu hết công lao cho những thành tích này.
Stone kiểm tra đồng hồ. Buổi họp sắp bắt đầu rồi. Tuy vậy, đó là cả một chặng cuốc bộ dài, và hôm nay đôi chân ông, phương tiện di chuyển thông thường của ông, tỏ ra mệt mỏi. Ông rời khỏi chiếc lều và kiểm tra ví. Trong chẳng có đồng nào.
Đúng lúc đó ông nhìn thấy người khách bộ hành. Ngay lập tức Stone bước theo người đàn ông này khi thấy anh ta giơ tay lên và một chiếc taxi tấp lại bên lề đường. Stone rảo bước nhanh hơn, đến bên người đàn ông khi anh ta đang trèo vào trong xe. Mắt cúi gằm, bàn tay chìa ra, Stone nói, “Ông có thể bố thí chút tiền lẻ không, thưa ông? Chỉ là vài đô la thôi.” Câu này được nói với giọng đầy nhũn nhặn, thành thạo, nó khiến người đàn ông kia có thể trở nên hào phóng. Hãy tỏ ra đi, Stone thầm giục. Vì đó là cả một quãng đường dài.
Người đàn ông lưỡng lự và rồi cũng cắn câu. Anh ta mỉm cười rồi thò tay lục ví. Mắt Stone mở to khi một tờ hai mươi đô la cáu cạnh được đặt vào lòng bàn tay mình.
“Chúa phù hộ cho ông,” Stone vừa nói, vừa nắm rất chặt tờ tiền trong tay.
Stone rảo bước một cách nhanh nhất có thể tới điểm đón taxi của khách sạn gần đó. Bình thường thì ông sẽ bắt một chiếc xe bus, nhưng với hai mươi đô la ông sẽ đi một mình cả một chuyến xe để thay đổi. Sau khi vuốt thẳng mái tóc dài bù xù của mình và cố ấn cho bộ râu quai nón cũng cứng đầu không kém vào vị trí, Stone bước thẳng tới chiếc taxi đầu tiên trong hàng.
Vừa trông thấy ông, gã tài xế đã ấn khóa cửa xe và rống lên, “Biến khỏi đây ngay không thì bảo!”
Stone chìa ra tờ hai mươi đô la và nói qua cánh cửa kính đã đóng một nửa, “Những quy định trong công việc của anh không cho phép anh phân biệt đối xử vì bất kỳ lý do nào.”
Cứ nhìn vào vẻ mặt của tay tài xế thì rõ ràng là gã sẽ phân biệt đối xử vì bất kỳ lý do nào gã muốn, tuy nhiên gã vẫn hau háu nhìn tờ tiền với vẻ tham lam. “Ông nói năng trơn tru, hoàn toàn không phải là một kẻ rác rưởi vô gia cư.” Gã nói thêm với vẻ ngờ vực, “Tôi cứ tưởng tất cả các người đều là lũ đần.”
“Tôi không hề đần, và tôi không phải người vô gia cư,” Stone đáp lại. “Nhưng quả thật, hừm, tôi không được may mắn cho lắm.”
“Chẳng phải tất cả chúng ta đều vậy sao?” gã mở cửa xe và Stone nhanh chóng trèo vào trong rồi cho gã tài xế biết nơi ông muốn tới.
“Tôi nhìn thấy Tổng thống trên đường đi tối nay,” gã tài xế nói. “Hoành tráng thật.”
“Ừ, hoành tráng,” Stone đồng tình với vẻ chẳng có gì là hào hứng. Ông liếc nhìn qua cửa kính sau của chiếc xe về hướng Nhà Trắng và ngồi ngả ra sau ghế, rồi nhắm nghiền mắt lại. Thật là một nơi hay ho để gọi là nhà.
Chú thích:

[3] Acre: Khoảng 0,4 ha.
[4] Hay còn được gọi là Con đường Tự do, thực chất là tên của một phong trào do những người miền Bắc nước Mỹ khởi xướng nhằm giúp các nô lệ da đen trốn khỏi miền Nam đến những bang tự do hoặc sang Canada ngay trước khi Nội chiến (1861-1865) nổ ra. Mạng lưới này bao gồm những đường dây liên lạc và nhà trú ẩn tạm thời rải rác khắp nước Mỹ.
[5] Đạo diễn điện ảnh nổi tiếng người Mỹ, tác giả những bộ phim mang nội dung phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam, như: Sinh ngày 4 tháng 7, Trung đội.
[6] Nhân vật có hình quả trứng, thường xuất hiện trong các chuyện cổ tích, hoặc những bài thơ, đồng dao của trẻ em Anh, Mỹ, xuất phát từ câu chuyện Humpty Dumpty ngồi trên tường cao và bị (ai đó) đẩy ngã xuống dưới, và vỡ tan tành.
[7] Tức National Security Agency: Cục An ninh Quốc gia Mỹ.
[8] Nơi đặt trụ sở của CIA - Cục Tình báo Trung ương Mỹ.

Chương sau