Bí mật núi sát nhân - Chương 43

Bí mật núi sát nhân - Chương 43

Bí mật núi sát nhân
Chương 43

Ngày đăng
Tổng cộng 70 hồi
Đánh giá 9.3/10 với 69599 lượt xem

Tội Camel đã cuốc bộ quay trở lại Foggy Bottom và bắt tàu điện ngầm tới nhà ga Liên minh, ở đó họ ăn bữa tối muộn ở quầy bán đồ ăn trong tầng dưới và bàn bạc mọi chuyện. Sau đó, họ tới bãi đỗ xe của nhà ga để lấy xe. Stone quyết định cưỡi chiếc sidecar cùng với Reuben. Ông quay sang nhìn Caleb và Milton, hai người đang trèo vào chiếc Malibu.
“Được rồi, hai người các cậu có thể về căn hộ của cậu, Caleb. Tôi tin là ở đó các cậu sẽ được an toàn, nhưng làm ơn phải hết sức cảnh giác.”
“Chờ một phút đã,” Caleb nói giật giọng. “Cậu và Reuben đi đâu bây giờ?”
Stone ngần ngừ. “Tôi chỉ nhờ Reuben đưa tôi quay trở về nhà thôi mà.”
Caleb chằm chằm nhìn bạn mình. “Cậu nói dối! Các cậu đang định tới Purcellville, chỗ ở của tên kia.”
“Tyler Reinke,” Milton nói to, trừng mắt nhìn Stone.
“Các cậu đang định tới đó,” Caleb nói tiếp. “Và các cậu không muốn chúng tôi đi cùng vì các cậu sợ chúng tôi sẽ gây cản trở.”
“Hãy nghĩ xem, Caleb, cậu và Milton hoàn toàn không có chút kinh nghiệm nào trong những chuyện như thế này. Trong khi đó Reuben và...”
“Tôi không quan tâm,” Caleb gằn giọng. “Chúng tôi cũng đi.”
“Tôi e là tôi không thể cho phép điều đó,” Stone điềm tĩnh nói. “Nếu chúng ta bị phát hiện, hắn sẽ tóm được tất cả bốn chúng ta thay vì đơn giản chỉ có hai người.”
Caleb lên tiếng với vẻ đầy tự trọng, “Không thể cho phép điều đó! Chúng tôi là người lớn cả rồi, Oliver. Và là những thành viên đầy đủ của Hội Camel. Và nếu cậu không đồng ý để chúng tôi đi, tôi sẽ bám ngay đằng sau cậu và bấm còi xe suốt cả chặng đường, và hãy để tôi nói cho cậu biết, còi xe của tôi kêu như một khẩu thần công đang khạc đạn đấy!”
“Và tôi cũng đã xác định được nhà của hắn qua máy tính của mình bằng cách sử dụng phần mềm MapQuest,” Milton nói. “Phải nói là sẽ rất khó tìm nếu không có những chỉ dẫn chi tiết mà tình cờ tôi lại có trong túi mình đây.”
Stone nhìn Caleb, Milton và cuối cùng là Reuben. Ông nhún vai.
“Tất cả vì một người và một người vì tất cả,” Reuben nói.
Cuối cùng Stone cũng phải gật đầu một cách miễn cưỡng.
“Nếu đã thống nhất vậy thì chẳng phải chúng ta chỉ cần dùng xe của tôi là đủ rồi còn gì?” Caleb nói.
“Không,” Stone vừa trả lời vừa chăm chú nhìn chiếc xe máy. “Thực sự tôi đã mê cái việc đi trong cỗ máy kỳ cục kia rồi, và có thể biết đâu đêm nay nó lại có ích.”
Họ hướng về phía Tây, đi theo Đường số 7 ở Virginia hướng về phía Tây Bắc, đi qua ngay sát trụ sở của NIC khi họ len lỏi qua khu Leesburg. Một tấm biển ở một trong những giao lộ báo hiệu hướng đi và khoảng cách dẫn đến trung tâm tình báo. Lần nào Stone cũng phải ngạc nhiên vì thực sự là còn có cả những tấm biển chỉ đến NSA, CIA và cả các cơ quan rất nhạy cảm khác. Tuy nhiên, ông thừa nhận, ngay cả những chỗ này cũng phải có khách viếng thăm. Mặc dù vậy, kể ra đây cũng là vết gợn trong đặc điểm “bí mật” của cái nghề này.
Nơi Reinke sống mang dáng dấp nông thôn rất rõ nét. Họ men theo những con đường vắng vẻ quanh co uốn lượn cả nửa tiếng đồng hồ sau khi rời Đường số 7, cuối cùng Milton cũng tìm thấy tấm biển chỉ đường mà họ muốn. Ông ra hiệu cho Caleb tấp xe vào bên lề đường. Reuben lùi xe lại phía sau họ, rồi ông cùng với Stone bước xuống chiếc xe máy và vào xe ô tô cùng hai người kia.
Milton nói, “Từ con đường kia tới nhà hắn còn hai phần mười dặm nữa. Tôi đã kiểm tra chéo những địa chỉ khác trên này. Chẳng có nhà cửa nào khác cả. Nhà của hắn là ngôi nhà duy nhất.”
“Biệt lập kinh khủng,” Reuben vừa nói, vừa liếc mắt nhìn quanh với vẻ lo lắng.
Stone nhận xét, “Những tên giết người vẫn nổi tiếng về yêu cầu riêng tư mà.”
“Vậy kế hoạch thế nào đây?” Caleb hỏi.
“Tôi muốn cậu và Milton ở nguyên trong xe...”
“Oliver!” Caleb bật lên phản đối ngay lập tức.
“Cứ nghe tôi nói hết đã nào, Caleb. Tôi muốn cậu và Milton ở nguyên trong xe, nhưng trước tiên chúng ta sẽ lái xe lên trên kia và xem là có ai ở nhà không. Nếu có, chúng ta sẽ rời đi. Nếu không, cậu và Milton sẽ quay lại đây và đóng vai như người canh gác cho chúng tôi. Đây là con đường duy nhất dẫn vào hoặc đi ra, phải vậy không, Milton?”
“Đúng.”
“Chúng ta sẽ liên lạc bằng điện thoại di động. Nếu các cậu nhìn thấy có người đến, hãy gọi cho chúng tôi ngay lập tức và chúng tôi sẽ có những hành động cần thiết.”
“Các cậu định làm gì vậy?” Caleb hỏi. “Đột nhập vào nhà hắn à?”
“Cậu biết đấy, Oliver, có thể nhà hắn có trang bị hệ thống báo động,” Reuben cảnh báo.
“Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu hắn có.”
“Nếu thế thì chúng ta vào trong bằng cách nào đây?” Reuben hỏi.
“Cứ để tôi lo chuyện đó.”
Ngôi nhà quả thật trông tối om và có lẽ bên trong không có người, vì không thấy chiếc xe nào bên ngoài trong khi bản thân ngôi nhà lại không có ga-ra. Trong khi Milton và Caleb đứng gác ở một vị trí khuất nẻo gần lối rẽ vào con đường, Reuben và Stone lái đi tiếp trên chiếc Indian, rồi đỗ dưới một rặng cây phía sau ngôi nhà và đi bộ vào trong.
Đó là một ngôi nhà bằng ván ghép hai tầng với lớp sơn màu trắng. Stone dẫn Reuben ra phía sau nhà. Cánh cửa ở đây rất chắc chắn, nhưng ngay cạnh đó có một khung cửa sổ. Stone nhòm vào trong cửa sổ và ra hiệu cho Reuben cùng nhìn.
Một tia sáng màu xanh nhạt phát ra từ một vật thể trông rất mới gắn trên bức tường đối diện với cánh cửa.
“Vậy là hắn có một hệ thống an ninh, được rồi,” Reuben lầm bầm. “Giờ thì sao đây?”
Stone không trả lời bạn. Ông gí sát mặt hơn vào cửa sổ. “Chúng ta phải tính đến khả năng hắn có thiết bị chuyển động. Điều đó càng khiến mọi chuyện thêm phức tạp.”
Bất thình lình, có thứ gì đó lao vụt về phía họ từ bên trong ngôi nhà kèm với hai vệt sáng màu ngọc bích. Nó đâm thẳng vào cửa sổ và nẩy ngược trở lại. Cả hai người cùng giật lùi lại, Reuben đã bắt đầu quay người chạy nhưng Stone đã kịp gọi với lên.
“Không sao đâu, Reuben,” Stone nói. “Ông Reinke có một con mèo.”
Trống ngực đập dồn dập, Reuben mò mẫm quay trở lại cửa sổ và nhìn vào đó. Trừng trừng nhìn lại ông là một con mèo đen với khoang ngực màu trắng và đôi mắt sáng quắc màu xanh to bự. Căn phòng mà họ đang nhìn vào là nhà bếp. Và có vẻ như con mèo đã nhảy lên từ bệ bếp khi nó nhận ra sự hiện diện của họ.
“Con mèo chết tiệt! Tôi cá nó là mèo cái,” Reuben vừa nói vừa nhăn mặt.
“Tại sao cậu lại nói như vậy?”
“Bởi vì phụ nữ luôn tìm cách gây ra cho tôi những cơn đau tim, đó là lý do tại sao!”
“Thật ra, sự có mặt của con mèo này làm mọi chuyện đơn giản đi rất nhiều,” Stone nói.
“Tại sao cậu lại cho là như vậy?”
“Những hệ thống an ninh có thiết bị phát hiện chuyển động không chung sống hòa bình được với lũ mèo.”
Reuben búng ngón tay đánh tách một tiếng. “Những hành lang dành cho vật nuôi là nơi thiết bị phát hiện chuyển động không quét tới?”
“Chính xác.” Stone đang rút ra thứ gì đó từ trong túi của mình. Đó là một chiếc hộp da màu đen được ông mang đi từ căn phòng bí mật. Ông mở chiếc hộp ra. Bên trong là một bộ đồ nghề ăn trộm hạng nhất.
Reuben ngây người nhìn những dụng cụ tội phạm này rồi ngước lên nhìn bạn mình và nói, “Tôi không muốn biết gì đâu đấy.”
Cánh cửa gian bếp được mở ra chỉ trong vòng mười giây sau đó.
“Làm thế nào cậu biết được rằng cửa sổ không được nối với hệ thống an ninh?”
“Cửa sổ mà cũng nối báo động cùng với cả thiết bị phát hiện chuyển động thì hơi quá cẩn thận,” Stone trả lời. “Với lại một ngôi nhà cũ kỹ như thế này có tường trát thạch cao rất khó luồn dây bên dưới. Tôi nghi ngờ việc ông Reinke có thể giải trình được chi phí. Và tôi đã kiểm tra xem có cột an ninh không dây gắn trên cửa sổ hay không trước khi tôi cậy nó ra.”
“Được rồi,” Reuben gặng hỏi. “Giờ thì tôi có muốn biết rồi đấy. Thế quái nào mà cậu lại biết rõ về những thứ như cột an ninh không dây gắn trên cửa sổ?”
Stone liếc nhìn ông với vẻ mặt hoàn toàn ngây thơ. “Thư viện vẫn mở cửa cho công chúng mà, Reuben.”
Họ trèo vào trong và con mèo xán lại gần họ ngay lập tức, nó cọ mình vào chân hai người và kiên nhẫn chờ đợi được vuốt ve.
“Được rồi, trước khi vào bất kỳ căn phòng nào, chúng ta cần tìm ra máy dò chuyển động. Sau đó tôi sẽ để con mèo đi qua phòng và chúng ta sẽ đi theo vết của nó,” Stone nói. “Chuẩn bị bò áp bụng đi.”
“Tuyệt vời! Cứ như là quay trở lại Việt Nam vậy,” Reuben cằn nhằn.
Nửa tiếng đồng hồ trước khi Stone và Reuben đột nhập vào nhà của Tyler Reinke, cửa sau ngôi nhà của Milton bị xô mở tung và Warren Peters cùng Tyler Reinke lẻn vào trong, rồi đóng cửa lại. Thật ra cũng không dễ dàng đến thế, vì cánh cửa nào Milton cũng dùng đến sáu chiếc khóa, và tất cả những cửa sổ đều được đóng then chặt cứng, điều mà nhân viên cứu hỏa chắc chắn sẽ không vừa lòng. Trước đó hai tên đã kiểm tra hộp điện dẫn vào trong ngôi nhà để xem có dấu hiệu nào của hệ thống an ninh không, và kết quả là không có gì hết.
Reinke vẫn còn đi khập khiễng sau khi bị Alex Ford chặt vào đầu gối. Và còn nguyên cả một lỗ đạn trên tay áo khoác của Warren Peters, nơi một trong những phát súng của tay nhân viên Cơ quan Mật vụ đã chút nữa tìm thấy mục tiêu của mình. Chúng đã vô tình chạm trán hai người khi chúng tới Georgetown để tìm kiếm chiếc thuyền một lần nữa, và nhận ra rằng Ford và Adams đã nhanh chân hơn chúng.
Cả hai đều điên cuồng về thất bại của chúng trong việc thủ tiêu hai người, và thật sự là may mắn cho Milton Farb khi ông không có ở nhà lúc này.
Hai tên rút những cây đèn pin của mình ra và bắt đầu lục lọi. Chỗ ở của Farb cũng không lớn lắm, nhưng chất đầy sách và những thiết bị video cùng máy tính đắt tiền phục vụ cho công việc thiết kế trang web của ông. Có mặt tại đây còn có một thứ mà Reinke và Peters không hề tính đến: một hệ thống giám sát hồng ngoại không dây trông chẳng khác gì hệ thống chiếu sáng cảm biến trên trần. Được bố trí trong mỗi căn phòng, hệ thống đang ghi lại những chuyển động của chúng, và cũng gửi tín hiệu báo động bí mật tới một công ty an ninh mà Milton đã thuê sau khi xảy ra vài vụ trộm trước đó. Hệ thống này hoạt động bằng mạch điện sinh hoạt của ngôi nhà với bộ pin dự phòng. Ông đã ngừng việc sử dụng hệ thống báo động gây tiếng ồn vì trong khu vực nơi ông sống cảnh sát mất rất nhiều thời gian mới đến được trong khi những tên trộm bị đánh động đã kịp cao chạy xa bay từ rất lâu trước khi họ tới.
Khi hai tên sục sạo trong ngôi nhà, sự ngạc nhiên của chúng càng tăng lên.
“Thằng cha này đúng là tâm thần thứ thiệt,” Peters nói khi chúng kiểm tra căn bếp. Những đồ ăn đóng hộp trong chạn tất cả đều được dán nhãn đầy đủ và xếp theo trật tự cực kỳ gọn gàng. Đồ làm bếp treo trên giá gắn trên tường được sắp xếp từ cái to nhất đến cái nhỏ nhất. Những chiếc xoong chảo cũng được tổ chức theo cách thức giống hệt như vậy trên một chiếc giá lớn phía trên bếp. Ngay cả những miếng lót nồi cũng được sắp xếp một cách chính xác, cùng với những chiếc đĩa trong tủ bếp. Cả ngôi nhà là một đài tưởng niệm tôn vinh sự cầu kỳ ở mức độ cuồng tín nhất.
Khi chúng lên gác và sục sạo phòng ngủ của Milton cùng tủ quần áo, mọi thứ cũng không có gì khác biệt.
Reinke bước ra khỏi phòng tắm chính và lắc đầu. “Cậu sẽ không thể tin được chuyện này đâu. Thằng cha này đã xé riêng từng miếng giấy toilet một và xếp chúng vào một chiếc giỏ bằng cành liễu bên cạnh bệ toilet với hướng dẫn chi tiết về cách xử lý. Ý tôi là giấy toilet dùng xong không xối đi thì để làm gì chứ?”
Trong tủ quần áo trong phòng ngủ, Peters nói, “Hừm, chà chà, hãy vào trong này mà xem, có ai lại treo tất lên mắc treo không chứ?”
Một lát sau cả hai tên đứng ngây người nhìn những chiếc tất, đồ lót và áo sơ mi, tất cả đều được treo trên những móc áo bằng gỗ, trong đó áo sơ mi đều được đóng cúc đầy đủ, thậm chí cả cổ tay. Đã thế chúng lại còn được sắp xếp theo mùa. Đây không phải là điều hai kẻ đột nhập phỏng đoán, vì quả thật Milton đã rất cẩn thận dán kèm cả những bức ảnh miêu tả mùa đông, mùa hè, mùa xuân và mùa thu.
Không tìm thấy thứ gì có ích trong phòng ngủ chính, hai tên nhân viên NIC mò sang những phòng khác trên gác vốn đã được bố trí lại thành một văn phòng. Ngay lập tức cả hai tên bước lại gần bàn làm việc của Milton, nơi từng thứ một được sắp xếp ở góc độ chuẩn xác với những thứ xung quanh.
Và cuối cùng, trong ngôi nhà của sự ngăn nắp hoàn hảo này, chúng cũng tìm thấy một thứ mà chúng thực sự có thể sử dụng. Nó nằm trong một chiếc hộp có đánh dấu “Hóa đơn” trên một chiếc giá đằng sau bàn làm việc của Milton, và chúng nhanh chóng phát hiện ra những tờ hóa đơn được sắp xếp theo từng tháng và từng sản phẩm. Từ chiếc hộp, Reinke còn lôi ra được một tờ kê thanh toán thẻ tín dụng có ghi tên trên đó.
“Chastity Hayes,” Reinke đọc. “Cậu có muốn đánh cược rằng đây là bạn gái của hắn không?”
“Một thằng cha như thế này mà có bạn gái ư?”
Trong đầu mỗi tên có lẽ đều cùng một ý nghĩ, chúng lia đèn pin lên những bức tường trong căn phòng của Milton. Những bức ảnh được sắp xếp theo trật tự vô cùng cầu kỳ mà Peters là người đầu tiên nhận ra. “Đó là cấu trúc vành xoắn kép. ADN. Thằng cha này điên thật rồi.”
Ánh đèn của Reinke lia qua một bức ảnh rồi quay trở lại.
“Yêu anh, Chastity,” Reinke đọc dòng chữ phía dưới bức ảnh. Trong bức ảnh Chastity mặc một bộ đồ tắm cực kỳ bốc lửa và đang thổi một nụ hôn gió về phía người chụp ảnh có lẽ là Milton.
“Đó là bạn gái của hắn ư?” Reinke choáng váng khi hắn dán mắt vào một bức ảnh của Milton đặt cạnh bức ảnh Chastity trong bộ bikini. “Thế quái nào mà một thằng điên như hắn lại kiếm được một cô nàng như thế?”
“Bản năng che chở,” Peters trả lời ngay lập tức. “Một số phụ nữ thích đóng vai trò người mẹ.”
Peters rút ra một thiết bị điện tử nhìn giống như phiên bản lớn hơn của một chiếc Blackberry và nạp tên của Chastity Hayes vào đó. Một phút sau ba khả năng hiện lên. Giới hạn phạm vi kiểm tra trong khu vực Washington, D.C., Peters tìm ra Chastity Hayes, kế toán và là chủ sở hữu một ngôi nhà ở Chavy Chase, Maryland. Ngoài ra, hắn còn có cả những thông tin về tình hình tài chính, trình độ giáo dục, hồ sơ y tế, việc làm của người phụ nữ này. Trong lúc Peters dán mắt vào những thông tin đang nối tiếp nhau xuất hiện trên màn hình thiết bị nhỏ xíu của mình, Reinke chỉ ngón tay vào dòng chữ: “Cô ta từng ở trong một bệnh viện tâm thần một thời gian. Tôi chắc là cô ả cũng bị OCD như Farb.”
“Ít nhất chúng ta cũng biết cô ta sống ở đâu. Và nếu Farb không có ở đây” - Peters liếc nhìn một lần nữa bức ảnh của cô nàng Chastity đáng yêu - “nhiều khả năng hắn đang ở đó. Vì đó là nơi tôi sẽ ngủ, nếu tôi là hắn.”
Tiếng động ở phía sau nhà khiến cả hai tên cứng đờ người. Đó là tiếng bước chân. Và rồi chúng nghe thấy một tiếng rên và tiếng ai đó ngã vật xuống.
Hai tên rút súng ra và tiến về phía phát ra những tiếng động
Khi ra đến gian bếp, chúng nhìn thấy ngay. Người đàn ông nằm trên sàn, bất tỉnh. Cả hai tên đều giật mình khi nhìn thấy bộ sắc phục.
“Cảnh sát hợp đồng,” cuối cùng Reinke lên tiếng. “Chắc chắn chúng ta đã bỏ sót hệ thống báo động nào đó.”
“Ừ, nhưng kẻ nào đã đánh hắn ngất xỉu chứ?”
Hai tên lo sợ nhìn quanh.
“Chúng ta hãy ra khỏi đây thôi,” Reinke thì thào.
Chúng lẻn ra phía sau ngôi nhà và một lát sau đã quay lại nơi đỗ xe của mình cách đó một khối nhà.
“Tối nay chúng ta tới chỗ con bé kia chứ?” Peters hỏi.
“Không, các anh sẽ không đi đâu hết,” một giọng nói cất lên khiến cả hai tên giật nẩy mình.
Chúng quay lại và nhìn thấy Tom Hemingway nhô người lên khỏi băng ghế sau. Trông gã không có vẻ gì là vui vẻ.
“Các anh đã có một đêm thất bại khác thường,” gã bắt đầu với vẻ đe dọa.
“Anh bám theo chúng tôi tới đây à?” Peters hỏi với giọng rất khẽ và hơi run rẩy.
“Sau báo cáo mới nhất về việc các anh làm bung bét mọi chuyện, chính xác thì các anh trông đợi tôi sẽ làm gì đây?”
“Vậy là anh đã hạ tên cảnh sát hợp đồng đó. Hắn chết rồi à?” Reinke hỏi.
Hemingway phớt lờ câu hỏi của Reinke. “Để tôi nhấn mạnh lại với cả hai người các anh một lần nữa về mức độ nghiêm trọng của những gì chúng ta đang cố gắng đạt được trong vụ này. Tôi có cả một đội quân đang đổ mồ hôi sôi nước mắt ngay gần đây thôi và họ còn phải làm nhiều hơn cả những gì mỗi người trong các anh được yêu cầu làm. Và khác với họ, các anh đang được trả rất nhiều tiền. Ấy vậy mà họ chưa hề phạm phải bất kỳ sai sót nào.” Gã trừng trừng nhìn chúng với ánh mắt dữ dội đến nỗi cả hai tên đều nín thở. “Có thể những gì vừa xảy ra tối nay chỉ là một chút không may. Nhưng từ giờ trở đi, tôi sẽ không chấp nhận bất kỳ sự may rủi nào nữa đâu đấy.”
“Bây giờ anh muốn chúng tôi phải làm gì đây?” Reinke hồi hộp hỏi.
“Hãy về nhà và nghỉ ngơi chút đi. Các anh cần điều đó.” Hắn chìa bàn tay của mình ra. “Đưa cho tôi tờ hóa đơn có tên người phụ nữ đó.”
“Làm sao anh lại…” Reinke định nói.
Nhưng Hemingway nhìn hắn với ánh mắt khinh miệt đến nỗi Reinke phải ngậm miệng ngay lại và chuyển cho gã tờ giấy. Chỉ vài giây sau Hemingway đã biến mất.
Cả hai tên ngồi ngả ra trên ghế xe của mình và thở phào nhẹ nhõm.
Peters nói, “Thằng cha đó làm tôi sợ hết hồn chứ không đùa.”
Reinke gật đầu. “Hắn từng là một huyền thoại ở CIA. Thậm chí cả dân ma túy ở Colombia cũng sợ hắn chết thôi. Không một ai từng nhìn thấy hắn đến hoặc đi.” Hắn dừng lại. “Tôi đã xem hắn tập luyện trong phòng tập ở NIC. Nhìn người hắn như được tạc từ đá granit, mà hắn lại còn nhanh như mèo. Và hắn đã phá hủy những chiếc bao tập nặng bảy mươi lăm pound chỉ bằng tay không. Người ta đã cấm hắn sử dụng chân trên những bao tập cỡ lớn vì hắn từng xé toang chúng chỉ bằng một cú đá.”
“Vậy bây giờ thế nào đây?” Peters hỏi.
“Chúng ta nghe hắn nói rồi đấy. Chúng ta cần nghỉ ngơi đôi chút. Sau ba cú hỏng ăn tối nay chúng ta đâu cần thêm một cú thứ tư làm gì. Cậu có thể nghỉ tạm ở chỗ tôi.”

Chương trước Chương sau