Cáo sa mạc - Chương 13

Cáo sa mạc - Chương 13

Cáo sa mạc
Chương 13

Ngày đăng
Tổng cộng 52 hồi
Đánh giá 9.1/10 với 49009 lượt xem

Trước đây, bà Lally làm giáo viên ở bang Nebraska. Hôm bà về hưu, thấy mình cô độc, bà muốn đi thăm New York. Bà chưa muốn về lại nhà.
Buổi tối bà đến Ga lớn Trung tâm, đây là bước ngoặc của đời bà. Bà thấy lạ lùng, lo sợ khi đi qua đại sảnh của nhà ga rộng mênh mông, chiếc va-li độc nhất trên tay. Bà ngước mắt nhìn và bỗng dừng lại. Có lẽ bà là người duy nhất bỗng nhiên nhận thấy bầu trời đảo ngược. Sao ở phương Đông chạy sang phương Tây.
Bà phá ra cười, môi hé mở để lộ hai chiếc răng cửa khổng lồ. Nhiều người quay lại nhìn bà rồi quày quả bước đi. Phản ứng của họ làm bà thấy vui. Tại quê nhà nếu có người thấy bà Lally ngước mắt nhìn trời và cười một mình như thế, chắc thế nào ngày mai cả thành phố đều kháo nhau rùm beng.
Bà gởi va-li ở phòng giữ đồ, rồi vào phòng toa-lét nữ để rửa ráy. Sau khi đã vuốt lại chiếc váy cũ bằng len màu nâu đỏ cho khỏi nhàu, cài nút chiếc áo vét bằng len rộng thùng thình, bà chải lại mái tóc, thấm nước lên tóc, ép mái tóc cắt ngắn cho sát xuống, mái tóc bao ôm quanh khuôn mặt to bè và chiếc cằm nhọn.
Suốt 6 giờ tiếp theo đó, bà Lally đi xem khắp nhà ga bà thích thú như trẻ con khi nhìn cảnh người vào ra tấp nập, vội vàng. Bà ăn trong một quán ăn nhỏ bình dân rẻ tiền, đi xem các cửa hàng trong dãy hành lang ở nhà ga chạy dài đến tận các khách sạn, rồi cuối cùng đến ngồi nghỉ ở phòng đợi tại tầng trung tâm.
Bà mê mẩn nhìn một thiếu nữ đang cho con bú, ngắm một đôi tình nhân say đắm ôm nhau hôn, theo dõi một sòng bài gồm bốn con bạc đang sát phạt nhau.
Mãi cho đến nữa khuya bà mới chú ý nhận thấy có một nhóm người ngồi gần đấy, mới một lát đây thôi. Họ gồm có 6 người đàn ông và một người đàn bà nhỏ nhắn nói năng thân mật với người bạn già kia.
Người đàn bà thấy bà già nhìn mình, bèn đến bên bà và hỏi :
- Bà mới đến đây phải không? - Giọng chị ồ ồ nhưng dễ thương. Mới cách đây một lát, bà Lally đã thấy chị ta lượm tờ báo trong thùng rác.
- Phải. - Bà đáp.
- Bà có chỗ ở rồi chứ?
Bà Lally có giữ một phòng trong quán trọ thanh niên, nhưng với bản chất láu cá của bà, khiến bà đáp :
- Không.
- Bà mới đến à?
- Phải.
- Bà có tiền không?
- Chỉ có mấy đồng thôi. Lại nói láo nữa.
- Tốt, bà đừng lo, họ sẽ chỉ chỗ của bà, họ là dân thường trú ở đây. Chị ta đưa tay chỉ nhóm người phía sau chị.
- Thế chị ở gần đây sao? - Lally hỏi.
Người đàn bà mỉm cười, ánh mắt lạ lùng, nụ cười của chị để lộ hai hàm răng sâu.
- Không, chúng tôi ở đây. Tôi tên là Rosie Bidwell.
Suốt cuộc đời 62 năm buồn tẻ của mình, bà Lally chưa bao giờ có một người bạn thân. Chính Rosie Bidwell là người đã thay đổi cuộc sống của bà. Bà được họ chấp nhận vào nhóm. Cũng như Rosie, bà lấy hết đồ đạc trong va-li ra, cho vào cái túi đựng đồ nhật dụng. Bà học theo nếp sống của mọi người trong nhóm. - Ăn uống đạm bạc trong các quán ăn tự phục vụ, thỉnh thoảng tắm vòi sen trong các phòng tắm công cộng ở Greenwich Village, ngủ trong các nhà trọ rẻ tiền hay trong khách sạn bình dân giá một đô-la mỗi đêm, thậm chí còn ngủ ngay giữa phòng tiếp tân nữa.
Hay... ngủ trong phòng của bà ở Ga lớn Trung tâm.
Đây là điều bí mật duy nhất bà Lally không nói cho Rosie nghe. Bà luôn luôn đi thám hiểm khắp nhà ga, cho nên bà thuộc lòng các ngóc ngách ở nhà ga. Bà leo lên các cầu thang ở phía sau những cánh cửa sơn màu vàng cam của các ke tàu, rồi đi ngao du trong khu vực tối tăm kín đáo nằm giữa nền của bậc trên và trần của bậc dưới. Bà đã khám phá ra cầu thang khuất tịch nối hai nhà toa- lét nữ, và khi nhà toa-lét ở dưới đóng cửa để sửa chữa, bà thường lẻn vào trong cầu thang này và ngủ đêm ở đấy, không ai trông thấy hết.
Bà còn khoái đi dọc theo đường sắt ở trong đường hầm, dưới Đại lộ Park. Mỗi khi gặp con tàu đi ngang rú ầm ầm, bà dán người vào vách hầm đúc bằng bê-tông chia nhau từng miếng thức ăn với các con mèo đói đi lang thang trong hầm.
Nhưng có một chỗ nằm sâu dưới nhà ga bà thích nhất, những người bảo vệ gọi nơi nầy là phòng ca nhạc. Ở giữa những máy ép hơi, máy thông khí, máy quạt, máy phát điện chạy rầm rầm, kêu lách cách, rít ken két, người ta có cảm giác nơi này đang dự phần vào nhịp đập trái tim của nhà ga. Cánh cửa ở trên chiếc cầu thang hẹp ở phòng nhạc này không có chữ ghi chú gì hết, làm cho bà thích thú. Bà thận trọng chỉ cho một người bảo vệ đã thân quen với bà thấy. Anh chàng Rusty này nói cho bà biết đây chỉ là cái xó dơ bẩn mà ngày xưa người ta dùng làm nơi rửa bát đĩa của quán Oyster Bar, và bây giờ trong đó chẳng có quái gì hết. Nhưng bà cứ làm phiền anh ta mãi, khiến cuối cùng anh phải mở cửa chỉ cho bà xem.
Nơi này làm cho bà mê mẩn, tường và trần nhà lở lói, nồng nặc mùi ẩm mốc, nhưng bà không ngán. Căn phòng rộng, ánh sáng và nơi rửa chén bát còn hoạt động được. Thậm chí còn có cả cái tủ khoét sâu trong tường và một phòng toa-lét. Bà thấy ngay căn phòng này rất thuận tiện cho bà, nhu cầu của bà chỉ cần có thế là đủ.
Bà nói với Rusty :
- Này Rusty, đây có phòng ngủ và phòng tắm, anh cho tôi vào ngủ ở đây nhé.
Anh ta nghe bà nói, hoảng hồn, đáp :
- Không được đâu! Họ đuổi cổ tôi mất.
Nhưng bà ta cứ nói lui nói tới mãi, khiến cho anh phải cho phép bà vào ngủ một đêm. Rồi một hôm, bà tìm cách lấy cắp chìa khóa, đi thuê người ta rèn một cái chìa. Khi Rusty nghỉ việc, bà ta lấy căn phòng đó làm của riêng mình.
Lần lần bà ta chuyển một số đồ đạc của bà vào đấy, cái giường ọp ẹp, tấm nệm cũ kỹ, cái giỏ đựng rau quả.
Bà vào đấy nghỉ ngơi đều đặn. Đây là nơi bà thích nhất trần đời, nằm ngủ ngay trong lòng sâu của Ga lớn Trung tâm, co mình trong lòng nhà ga để nghe tiếng tàu gầm rú, về khuya giảm dần rồi sáng sớm lại bắt đầu rộn rã vang lên.
Nằm ở trong phòng, thỉnh thoảng bà nhớ đến bài “Con ma của Nhà Hát Lớn” mà bà đã dạy cho học sinh của bà. Bà đã kể cho học sinh nghe: “Dưới Nhà Hát Lớn màu vàng mỹ miều ấy, có một thế giới khác, một thế giới tối tăm bí ẩn, thế giới dưới đất, trong ống cống, ẩm ướt, ở đấy có một gã đàn ông lẩn tránh khỏi thế giới loài người”.
Chỉ có đám mây đen xuất hiện ở chân trời làm cho bà lo sợ thôi, đó là nỗi lo sợ của bà khi một ngày nào đấy người ta phá hủy nhà ga đi. Khi ủy ban bảo vệ Ga lớn Trung tâm tổ chức cuộc biểu tình, bà Lally ép mình trốn trong một góc, nhưng bà đã hoan hô hết mình khi nghe những nhân vật tiếng tăm như bà Jackie Onassis tuyên bố rằng Ga lớn Trung tâm đã đóng góp công lao vào việc duy trì truyền thống hào hùng của dân New York, nên không thể phá hủy nó đi được.
Mặc dù người ta đã xếp nhà ga vào di tích lịch sử, nhưng bà Lally vẫn biết rằng có nhiều người đang còn tìm cách để triệt hạ nó xuống. Không, lạy Chúa, xin đừng triệt hạ nhà ga của con đi!
Bà không dùng phòng này vào mùa đông, vì ở đây rất lạnh và ẩm ướt. Nhưng từ tháng 5 cho đến tháng 9, bà thường nghỉ ngơi ở đây chừng hai lần một tuần, phải ít thôi, để khỏi làm cho những người bảo vệ chú ý, cũng như khỏi làm cho Rosie nghi ngại.
Sáu năm đã trôi qua, những năm tháng tuyệt vời nhất của đời bà Lally. Bà đã quen biết hết những người bảo vệ những người bán báo, những người bán vé tàu. Bà biết mặt hết những người thường lui tới, những người đi tàu nào vào giờ nào. Bà cũng còn nhận diện được những bợm nhậu thường xuyên về nhà trên chuyến tàu cuối cùng, bước chân xiêu vẹo trên ke tàu.
Tối thứ Hai này, Lally có hẹn gặp Rosie ở phòng đợi trung tâm. Bà đã khổ sở vì chứng thấp khớp suốt mùa đông. Đây là lý do khiến bà không đến căn phòng của mình. Nhưng đã sáu tháng trôi qua rồi, bỗng nhiên bà thấy không thể đợi lâu hơn nữa. Bà nghĩ: ta chỉ xuống xem lại căn phòng ra sao thôi. Nếu ở đấy không lạnh quá, đêm nay bà có thể ngủ ở đấy. Nhưng chắc ít có khả năng như thế.
Bà mệt nhọc đi xuống dãy tầng cấp dẫn xuống bậc phía dưới. Có ít người ở đây. Bà đi chậm rãi, canh chừng cảnh sát. Bà phải cẩn thận để không ai trông thấy bà đi đến căn phòng ấy. Chắc họ sẽ không bao giờ để cho bà vào đấy, ngay cả những người dễ thương nhất.
Bà chú ý nhìn một gia đình có ba đứa con. Thật dễ thương, bà thương trẻ con và đã từng là một nhà giáo tốt. Bà thường bỏ qua chuyện chúng chế nhạo bà xấu xí, bà hoàn toàn nhất trí với chúng về mặt này. Bà không muốn trở lại những ngày ấy nữa, mà cũng không muốn tham gia vào cảnh giàu sang của người đời.
Bà định đi xuống bờ dốc đến đường sắt 112 thì bỗng bà trông thấy những mảnh vải lót màu đỏ lòi ra ngoài chiếc măng-tô cũ màu xám.
Bà Lally nhận ra cái áo măng-tô, vì tuần trước bà đã mặc thử cái áo này trong tiệm bán áo quần cũ ở Đại lộ 2. Không thể nào có hai cái áo giống nhau như thế được, nhất là vải lót ở trong như thế. Bà lấy làm ngạc nhiên, bèn ngước mắt nhìn người đang mặc cái áo, bà quá kinh ngạc khi thấy người mặc là một cô gái còn trẻ và đẹp như thế, cô ta trùm khăn trên đầu và đeo kính râm.
Gã đàn ông đi với cô ta... Lally đã thấy hắn ở trong ga rồi. Bà nhìn đôi ủng bằng da đắt tiền của cô gái, loại ủng mà những người đi tuyến đường ở Connecticut thường mang.
Ăn mặc thật tréo cẳng ngỗng, bà ta nghĩ. Cái áo măng-tô cũ mua ở tiệm bán đồ cũ với đôi ủng đắt tiền như thế. Càng lấy làm lạ, chăm chú nhìn hai người đi qua. Cái túi xách mà gã đàn ông mang bên nách có vẻ nặng. Bà cau mày khi thấy họ đi xuống tuyến đường sắt 112. Phải 45 phút nữa mới có tàu mà. Lạ thật, bà nghĩ, tại sao lại phải đợi ở ke tàu? Trời lạnh như cắt mà.
Bà nhún vai, biết trả lời sao đây. Nếu họ đứng đợi ở ke tàu, họ sẽ thấy bà, bà không thể vào căn phòng ấy. Bà phải đợi ngày mai thôi.
Cố nén thất vọng, bà đành quay lại phòng đợi chính của nhà ga để tìm Rosie.

Chương trước Chương sau