Con chim khát tổ - Chương 01

Con chim khát tổ - Chương 01

Con chim khát tổ
Chương 01

Ngày đăng
Tổng cộng 45 hồi
Đánh giá 9.9/10 với 50298 lượt xem

Khi cô người mẫu xinh đẹp nhiều tai tiếng ngã chết từ ban công căn hộ sang trọng của cô, mọi người, kể cả giới cảnh sát đều cho rằng đây là một vụ tự tử. Chỉ riêng người anh trai cô lặng lẽ ôm mối nghi ngờ tìm đến thám tử tư Cormoran Strike yêu cầu điều tra thêm.
Chàng thám tử Strike phong trần gai góc vốn là cựu quân nhân. Chiến tranh đã để lại trong anh vết thương thể xác lẫn tinh thần. Vụ điều tra này giúp anh nhẹ bớt gánh nặng tài chính hiện tại, nhưng cái giá phải trả là anh phải dấn ngày càng sâu vào thế giới phức tạp của cô người mẫu, nơi những điều đen tối dần hé lộ và mối nguy hiểm rình rập anh ngày càng lớn dần...
"Vụ án bí ẩn tinh vi, lôi cuốn diễn ra giữa không gian đặc chất London - từ những con phố thâm trầm sang trọng đến quán rượu lẩn khuất trong hẻm sâu và khu trung tâm thời thượng sôi động... Con chim khát tổ hứa hẹn màn ra mắt hấp dẫn của chàng thám tử Cormoran Strike, và là tiểu thuyết trinh thám đầu tiên rất được hoan nghênh của Robert Galbraith, một bút danh của nhà văn J.K.Rowling."
Em ra đời một ngày tuyết đổ.
Sao không chờ cuckoo tìm tổ?
Chờ nho xanh lấp ló trên cành
Chờ chim nhạn gọi bầy đập cánh
Cùng bay xa
Rồi hạ cũng tàn
Em lìa đời bên cừu ngậm sữa
Sao không chờ ngày thu táo rụng?
Chờ giun dế hát tiếng cuối cùng
Đồng lúa mì rơm rạ xác xơ
Ngọn gió đông buông lời than thở, khóc nụ đời đã nhuốm màu tang
Không khí trên phố nôn nao, tựa như có hàng ngàn con ruồi vô hình bay vo ve. Đám nhiếp ảnh gia tập trung ngay sau hàng rào cảnh sát, chĩa ống kính vào hiện trường, hơi thở bốc khói. Tuyết rơi đều trên mũ, trên vai áo, những ngón tay đeo găng liên tục phải lau ống kính cho khỏi mờ. Thỉnh thoảng lại rộ lên từng đợt bấm máy lích kích. Cũng chẳng có gì mới, họ đành chụp tạm cái lều bạt trắng dựng lên giữa đường ngay lối vào tòa nhà căn hộ bằng gạch đỏ cao sừng sững, nơi có người vừa rơi xuống từ ban công tầng cao nhất.
Ngay sau đám paparazzi chen chặt là mấy chiếc xe tải trắng lắp đĩa vệ tinh. Cánh nhà báo đứng quanh liên tục nói và nói, nghe có cả tiếng nước ngoài. Trong khi đó, các kỹ thuật viên âm thanh đeo tai nghe lượn qua lượn lại. Giữa những đợt ghi hình, đám phóng viên lại dậm chân tại chỗ cho đỡ rét và liên tục xoa tay lên những cốc cà phê nóng vừa mới được đem về từ hàng nước cách đó vài dãy phố. Để giết thời gian, tay quay phim đội mũ len hết lia máy quay vào lưng của đám nhiếp ảnh gia, lại lia lên phía ban công, quét qua chỗ lều bạt nơi đặt thi thể nạn nhân, rồi lại sửa tư thế để lấy góc rộng, cho thấy sự hỗn độn vừa nổ ra trên con phố Mayfair ngày thường vốn tĩnh lặng và trắng tuyết, với những cánh cửa đen bóng loáng giữa hai cột đá trắng, điểm xuyết những bụi cây cảnh tỉa tót. Lối vào nhà số 18 đã bị niêm phong bằng băng dính, nhưng từ ngoài nhìn vào vẫn có thể thấy được cảnh sát và các chuyên gia pháp y mặc đồ trắng đứng lố nhố ngay sảnh lễ tân.
Các đài truyền hình đã phát tin này vài tiếng trước. Đám đông tụ tập ở hai phía đầu đường bị cảnh sát chặn lại không cho vào sâu thêm, có những người cố tình đến nghe ngóng, cũng có người chỉ tình cờ đi ngang qua trên đường đến sở làm. Nhiều người giơ điện thoại lên cao chụp vài pô rồi mới chịu rời đi. Một cậu trai trẻ không biết ban công nào là nơi vừa xảy ra án mạng, thế là chụp tất các ban công khu đó, cả cái ban công giữa có đặt ba cây cảnh tỉa hình câu chen chúc, rõ là không thể đủ chỗ cho ai nhảy qua được.
Có mấy cô gái vừa mang hoa tới và ngay lập tức lọt vào ống kính máy quay khi các cô đưa hoa cho cảnh sát. Anh cảnh sát nhận hoa cũng không biết phải để ở đâu, liền cẩn thận đặt hoa ở phía sau chiếc xe tải, biết chắc đám máy quay phim vẫn theo sát mình.
Phóng viên của các kênh tin tức 24 giờ liên tục đưa ra bình luận và phỏng đoán quanh mấy chi tiết giật gân ít ỏi.
“… từ căn hộ ở tầng cao nhất, khoảng 2 giờ sáng nay. Nhân viên an ninh của tòa nhà báo cảnh sát…”
“… thi thể nạn nhân vẫn chưa được mang đi nơi khác, khiến cho nhiều người phỏng đoán…”
“… không biết liệu nạn nhân có thực sự ở một mình lúc đó…”
“… nhóm điều tra đã đi vào tòa nhà và sẽ tiến hành lục soát kỹ lưỡng.”
Bên trong lều bạt ngập ánh đèn trắng lạnh lẽo. Hai người đàn ông đang cúi người bên thi thể, chuẩn bị đưa vào túi đựng xác. Đầu cô gái rỉ chút máu ra tuyết trắng. Gương mặt đã dập và sưng, một bên mắt phồng lên, nhăn nhúm, mắt kia chỉ còn là một khe trắng nhờ giữa hai mí mắt sưng húp. Lớp kim sa trên áo cô gái sáng lấp lánh, mỗi khi ánh sáng thay đổi lại gây cảm giác cử động rợn người, như thể cô vừa mới thở lại, hay gồng mình chuẩn bị ngồi dậy. Tuyết vẫn rơi đều, lộp độp trên tấm bạt căng lều.
“Sao đến giờ vẫn chưa thấy chiếc xe cứu thương chết dẫm nào cả?”
Thanh tra Roy Carver đang nổi nóng. Carver bụng phệ, mặt đỏ như thịt bò muối, nách áo sơ mi lúc nào cũng đẫm mồ hôi. Xem ra chút kiên nhẫn của ông đã cạn sạch từ mấy tiếng đồng hồ trước. Ông đã phải ngồi đây với các xác từ lúc người ta mới khiêng vào; chân lạnh đến nỗi không còn cảm giác, đầu óc thì quay cuồng vì đói.
“Xe tới trong hai phút nữa.” Trung sĩ điều tra Eric Wardle bước vào lều, vô tình trả lời câu hỏi của thượng cấp trong khi vẫn nghe điện thoại. “Vừa chuẩn bị chỗ cho xe vào đây.”
Carver cằn nhằn. Ông đang bực mình, lại gặp cái cậu Wardle có vẻ thích thú đám nhiếp ảnh gia. Wardle đẹp trai kiểu hơi trẻ con, tóc nâu dày gợn sóng bám đầy tuyết. Carver biết chắc nãy giờ cậu ta cố tình dây dưa qua lại cho đám ngoài kia tha hồ chụp hình.
“Ít ra đám báo chí cũng sẽ biến khi người ta đem xác đi,” Wardle bình luận, trong khi mắt vẫn dán vào chỗ mấy tay thợ ảnh.
“Chỗ này còn là hiện trường án mạng thì còn lâu tụi đó mới đi,” Carver gằn giọng.
Wardle không trả lời nữa. Carver sôi tiết lên.
“Con hâm đó nhảy lầu. Không có ai ở đó hết. Con mụ mà cậu gọi là nhân chứng đang phê trắng mắt ra…”
“Xe tới rồi.” Wardle nói, rồi mặc cho Carver bực tức, cậu lách ra khỏi lều, cố ý đứng chờ xe ngay giữa rừng ống kính.
Vụ việc nóng hổi này khiến những tin tức về chính trị, chiến tranh và thảm họa bị dẹp qua một bên. Mỗi khi phát tin, người ta lại đưa ra những bức ảnh của nạn nhân với gương mặt không tì vết và cơ thể hoàn hảo, cân đối như tượng. Chỉ trong vòng vài tiếng, mấy chi tiết ít ỏi được biết cho tới lúc đó đã lan tỏa như một thứ virus đến hàng triệu người: nào là vụ cãi nhau nơi công cộng với anh người yêu nổi tiếng, chuyện bỏ về nhà một mình, tiếng hét và cuối cùng là cú ngã chí mạng…
Tay người yêu của nạn nhân sau đó đã lánh ngay vào trại cai nghiện. Cảnh sát không đưa ra bình luận nào. Tất cả những người có gặp nạn nhân buổi tối hôm đó đều bị truy tới cùng. Hàng ngàn cột báo, bao nhiêu tiếng đồng hồ tin tức truyền hình, lại thêm người đàn bà liên tục thề thốt là có nghe thấy tiếng cãi nhau trước khi nạn nhân rơi xuống cũng được nổi tiếng lây trong vài ngày ngắn ngủi. Bà ta cũng được đăng một tấm hình be bé ngay bên cạnh ảnh chân dung của nữ nạn nhân xinh đẹp.
Nhưng rồi đám đông chỉ còn thiếu nước rên lên vì thất vọng, vì cảnh sát cho rằng nhân chứng nói dối, rồi sau đó chính bà ta cũng lên đường vào trại cai nghiện. Nghi can số một quay trở lại, như hai bức tượng trong đồng hồ cuckoo, ông đi ra thì bà phải đi vào, không thể nào xuất hiện cùng lúc.
Kết luận cuối cùng là tự tử. Sau phút giây chưng hửng tạm thời, câu chuyện lại nổi lên. Người ta viết nạn nhân mất thăng bằng trong cuộc sống, tinh thần bất định, không thể thích nghi với vị trí siêu sao mà sắc đẹp và tính cách hoang dại đã đặt cô vào. Nào là cô bị đẩy vào giữa tầng lớp giàu có mà vô luân, rồi bị chúng làm hư hỏng. Rồi thì lối sống suy đồi cộng với nhân cách yếu đuối đã làm cô sa ngã.
Cô gái đã thở thành một bài học đạo đức, sặc mùi hỉ hả trên bi kịch của kẻ khác. Báo chí liên tục tung các ẩn dụ kiểu Icarus[1] đến nỗi tạp chí Private Eye[2] cũng phải làm một bài.
[1. Icarus là một nhân vật trong thần thoại Hi Lạp, vốn là con của nghệ nhân bậc thầy Daedulus. Icarus mang đôi cánh bằng sáp do cha làm để bay lên, nhưng không nghe lời cha mà bay quá gần mặt trời. Đôi cánh tan chảy, Icarus rơi xuống biển. Câu chuyện về Icarus hay được dùng để nói đến những tham vọng mù quáng. - ND]
[2. Tạp chí xuất bản ở Anh Quốc, chuyên châm biếm các sự kiện thời sự. - ND]
Cuối cùng, mọi ồn ào đều nguội lạnh, đến cả đám nhà báo cũng không còn gì để nói; dù sao tới lúc đó thì người ta cũng đã nói quá nhiều rồi.
Trong hai mươi lăm năm cuộc đời mình, Robin Ellacott đã từng gặp đủ chuyện ly kỳ và bất ngờ, nhưng chưa có hôm nào như hôm đó, cô thức dậy và tự dưng cảm thấy chắc chắn rằng hôm nay sẽ là một ngày không thể quên.
Đêm hôm trước, bạn trai lâu năm của cô là Matthew đã ngỏ lời cầu hôn ngay dưới tượng thần Tình yêu ở vòng xoay Piccadilly Circus. Robin đồng ý rồi anh chàng mới thở phào nhẹ nhõm và thú thật rằng đáng ra anh định ngỏ lời trong nhà hàng Thái, nơi hai người vừa ăn tối kia, nhưng lại không liệu trước được là có một cặp ngồi đằng sau hai người cứ im ỉm nghe trộm họ nói chuyện từ đầu đến cuối rất khó chịu. Vậy nên Matthew đành rủ Robin đi dạo một vòng trên những con đường đã tối đen, mặc cho cô phản đối vì ngày mai cả hai đều phải dậy sớm. Và cuối cùng, cảm hứng trào dâng, Matthew dắt tay cô nàng khi đó vẫn đang sửng sốt về phía bức tượng. Ở đó, giữa những cơn gió lạnh lẽo (rất là không giống phong cách Matthew) chàng đã quỳ xuống, ngỏ lời cầu hôn trước mặt đám khán giả là ba kẻ vô gia cư đang ngồi trên bậc thang, uống chung một chai có vẻ chứa rượu cồn.
Với Robin, đó là lời cầu hôn hoàn hảo nhất trong lịch sử cưới xin xưa nay. Matthew còn mang cả nhẫn trong túi, chiếc nhẫn giờ đây Robin đang đeo: một viên sapphire, hai viên kim cương, vừa khít tay cô. Trên đường vào thành phố cô không thể rời mắt khỏi bàn tay mình đang để trên đùi. Matthew và cô giờ đây cũng đã có một “sự tích” vui vui để sau này kể cho con cái, trong câu chuyện đó kế hoạch của Matthew (cô vẫn còn choáng váng vì Matthew có lên kế hoạch hẳn hoi) không thành như hóa ra lại hay. Cô thấy yêu quá cả ba tên lang thang, mặt trăng, và Matthew run rẩy quỳ gối. Cô yêu luôn tượng thần Tình Yêu, vòng xoay Piccally dơ bẩn cũ kỹ và chiếc xe taxi đen sau đó đã đưa họ về Clapham. Cứ như thể cô yêu cả London vậy, mặc dù vẫn chưa quen lắm thành phố này sau một tháng dọn đến. Ngay đến đám khách đi tàu điện xanh xao và cáu kỉnh hàng ngày cũng không làm cô bận lòng. Cô bước ra khỏi tàu, trong một sáng tháng Ba lạnh lẽo ở ga Tottemham Court Road. Robin đưa ngón cái vuốt ve mặt dưới chiếc nhẫn bạch kim, và thấy sướng run cả người khi nghĩ đến việc giờ nghỉ trưa sẽ đi mua vài cuốn tạp chí chuyên đề đám cưới.
Cánh đàn ông liên tục liếc Robin khi cô chen chúc qua công trình xây dựng ngay đầu phố Oxford, vừa đi vừa nhìn vào mẩu giấy trong tay phải. Xét theo tiêu chuẩn nào thì Robin cũng rất xinh; cao lớn và đầy đặn, tóc vàng gợn sóng theo mỗi bước đi, hơi gió lạnh làm gò má cô ửng hồng. Hôm nay là ngày đầu tiên cô đi làm thư ký thời vụ, hợp đồng chỉ trong một tuần. Từ khi dọn đến London sống với Matthew, Robin nhận toàn những việc tạm thời, nhưng hi vọng chuyện này sẽ không lâu nữa. Sắp tới cô sẽ có một cuộc “phỏng vấn công việc đàng hoàng”, cô hay nói thế.
Phần khó nhất trong những công việc kiểu này thường là làm sao tìm ra văn phòng làm việc. So với thị trấn nhỏ ở Yorkshire nơi Robin ở trước đó, London thực quá rộng lớn, rối rắm và khó hiểu. Matthew đã dặn dò cô đừng có vừa đi vừa đọc sách hướng dẫn chỉ đường “London: A tới Z”, vì như thế trông cô không khác gì khách du lịch, rất nguy hiểm; vậy nên Robin thường chỉ trông vào những bản đồ vẽ tay ngoằn ngoèo mà chỗ môi giới việc làm đưa. Cô không tin như vậy thì có vẻ giống người London hơn.
Những thanh chắn kim loại và mấy bức tường nhựa xanh bao quanh công trình xây dựng che hết cả nửa số điểm mốc định hướng trên bản đồ, làm Robin càng khó tìm đường hơn. Robin băng qua con đường đang bị đào xới, đến trước một toà nhà văn phòng, ứng với địa điểm “Centre Point” trên bản đồ. Tòa nhà trông như một miếng bánh waffle khổng lồ bằng bê-tông, dày đặc những ô cửa sổ vuông vức. Robin đi tiếp về phía phố Denmark.
Cô tìm ra văn phòng gần như là tình cờ khi men theo một lối đi hẹp có tên là Ngõ Denmark, đổ ra một con đường ngắn với những cửa hàng nhiều màu sắc trưng bày đàn guitar, keyboard, và đủ loại nhạc cụ linh tinh. Lại đến hàng rào sơn đỏ và trắng rào quanh một cái hố giữa đường, mấy người công nhân làm đường mặc quần áo phản quang bắt đầu huýt gió chọc ghẹo Robin, cô lơ hết.
Robin nhìn xuống đồng hồ. Đã trừ trước thời gian nhỡ bị lạc nên cô đến nơi sớm trước cả 15 phút. Cánh cửa đen không có gì đặc biệt mà cô đang tìm nằm ngay bên trái quán Bar Café số 12. Trên cánh cửa có một mẩu giấy nhỏ ghi tên chủ nhân văn phòng dán bằng băng dính ngay cạnh chuông cửa tầng hai. Nếu hôm đó cũng như những ngày khác, nếu trên tay cô không có chiếc nhẫn mới lấp lánh, Robin hẳn đã thấy hơi nản chí. Tuy nhiên lúc đó ngay cả miếng giấy xộc xệch và vết sơn tróc trên cánh cửa, cũng như những người vô gia cư đêm qua, đều trở thành phông nền cho câu chuyện lãng mạn của Robin. Cô lại xem đồng hồ (viên sapphire ánh lên, khiến tim cô loạn một nhịp; và sau này trong cả cuộc đời còn lại Robin không bao giờ chán ngắm ánh lấp lánh ấy cả). Trong tâm trạng hân hoan, cô quyết định đi vào sớm để người ta thấy cô nhiệt tình ra sao với một công việc tầm thường.
Robin vừa với tay định bấm chuông thì cánh cửa đen mở bật ra từ bên trong, một người phụ nữ bước ra. Một giây sững lặng, hai người nhìn thẳng vào mắt nhau, căng người chuẩn bị cho cú đụng chạm sắp xảy ra. Hôm đó mọi giác quan của Robin sắc bén lạ thường; họ kịp thời né nhau suýt soát. Người phụ nữ tóc đen nhanh chóng đi xuống đường, rẽ ngoặt ở góc phố rồi khuất dạng, nhưng trong giây lát, gương mặt trắng muốt ấy đã kịp gây ấn tượng sâu sắc với Robin đến nỗi cô nghĩ mình có thể vẽ lại nó chính xác từ trí nhớ. Một gương mặt tuyệt đẹp bừng bừng vẻ điên giận lẫn hả hê.
Robin kịp bắt lấy cánh cửa trước khi nó đóng lại, đằng sau cánh cửa là một lối cầu thang tối tăm. Cầu thang sắt kiểu cũ uốn lượn quanh một cái thang máy kiểu lồng chim cũng cũ kỹ không kém. Robin tập trung, cố không để gót giày vướng vào bậc thang, cô đi lên tầng một, ngang qua cánh cửa có gắn một tấm poster lồng khung, ghi chữ Crowdy Graphics, rồi tiếp tục đi lên. Chỉ tới khi cánh cửa gương trên tầng tiếp theo hiện ra Robin mới biết cô sắp làm việc gì. Trung tâm môi giới không hề nói gì trước với Robin cả.
Trên cánh cửa gương có khắc cùng tên người với mảnh giấy dán bên chuông cửa ở tầng dưới:C.B Strike và dưới đó là dòng chữ Thám tử tư.
Robin đứng im, miệng há ra. Cảm giác kinh ngạc này chỉ mình cô mới hiểu. Cô chưa bao giờ thổ lộ với ai (kể cả Matthew) về ước mơ bí mật có phần trẻ con của mình. Vậy mà hôm nay nó đã ở ngay trước mắt cô, ngay hôm nay chứ không phải ngày nào khác! Cứ như Chúa đang nháy mắt đùa với cô vậy (sự việc vừa xảy ra càng làm cô tin chắc hôm nay là một ngày đặc biệt; chắc hẳn có liên quan với cả Matthew và chiếc nhẫn, mặc dù xét cho cùng những chuyện đó chẳng dính dáng gì tới nhau).
Vẫn cực kỳ hân hoan, cô bước chầm chậm tới cánh cửa. Robin đưa tay trái ra (viên sapphire sẫm lại dưới ánh sáng mờ) với lấy nắm đấm cửa; nhưng ngay trước khi Robin chạm vào thì cánh cửa gương bỗng mở tung.
Lần này thì không suýt soát gì cả. Một người đàn ông khoảng độ một trăm ki lô đâm sầm vào người Robin; cô ngã ngửa ra sau, túi xách bắn lên không trung, hai cánh tay huơ loạn ở khoảng không ngay trên dãy cầu thang lắt léo.

Chương sau