Con chim khát tổ - Chương 29

Con chim khát tổ - Chương 29

Con chim khát tổ
Chương 29

Ngày đăng
Tổng cộng 45 hồi
Đánh giá 8.3/10 với 50119 lượt xem

Sáng sớm thứ Năm Strike đến Hội sinh viên Đại học London để tắm rửa và mặc quần áo tươm tất hơn thường lệ trước khi đi gặp Guy Somé tại studio riêng. Từ trang web của Guy Somé, hắn biết tay này rất khoái mấy thứ như quần áo cao bồi mặc ngoài bằng da đã sờn, cà vạt bằng lưới thép và băng quấn đầu màu đen trông như cắt ra từ những chiếc mũ quả dưa cũ. Biết vậy và cũng hơi muốn trêu ngươi, hắn cố tình ăn mặc thật chỉn chu. Hắn chọn bộ complet màu xanh đậm mặc hôm đến nhà hàng Cipriani.
Studio của Guy Somé là một nhà kho cũ từ thế kỷ mười chín, nằm bên bờ bắc sông Thames. Mặt nước sông lấp lánh làm Strike chói mắt khi hắn đi tìm lối vào vì không có biển chỉ dẫn gì cả. Bên ngoài nhà kho không hề có lấy một cái bảng hiệu.
Cuối cùng hắn tìm ra một cái chuông cửa lắp kín đáo, cũng không có tên tuổi dán kèm. Hắn bấm chuông, cửa mở tự động từ bên trong. Hành lang trống trải, thông thoáng, có điều hòa mát lạnh. Có tiếng leng keng lách cách. Trước mắt hắn hiện ra một cô gái tóc đỏ như cà chua, mặc đồ đen từ đầu đến chân, tay đeo rất nhiều vòng bạc xủng xoảng.
“Ô,” Cô ta thốt lên khi thấy Strike.
“Tôi có hẹn với ông Somé lúc mười giờ,” hắn nói, “Cormoran Strike.”
“Ô,” cô ta thốt lên lần nữa. “Ô kê.”
Cô ta biến mất, cũng với âm thanh leng keng đó. Trong khi chờ đợi Strike gọi cho Rochelle Onifade. Kể từ hôm gặp Rochelle mỗi ngày hắn đều gọi khoảng mười lần. Vẫn không ai nghe máy.
Một phút sau, một người đàn ông da đen nhỏ bé đột ngột xuất hiện, bước về phía Strike. Ông ta mang giày lót cao su, đi đứng nhẹ nhàng như mèo. Khi đi ông ta lắc hông hơi quá, phần thân trên lẫn hai cánh tay gần như bất động, trừ hai bờ vai đung đưa.
Guy Somé thấp hơn Strike dễ cũng đến ba tấc và chừng như chỉ có khoảng một phần trăm mỡ của hắn. Ông ta mặc áo thun ôm sát màu đen, phía trước ngực áo có hàng trăm cái khuy bạc nhỏ xíu tạo thành gương mặt Elvis Presley kiểu ba chiều, trông như một món đồ chơi tạo hình từ bản đinh. Lạ lùng hơn nữa, dưới lớp áo Lycra bó sát đó là sáu múi bụng rõ rệt. Somé mặc quần jean bó màu xám, có sọc nhỏ màu sẫm mờ mờ, mang giày thể thao màu đen hình như làm từ da bóng lẫn da lộn.
Gương mặt Guy Somé tương phản lạ lùng với thân hình gọn gàng chắc nịch. Mặt ông ta đầy những đường cong có phần thái quá: hai mắt lồi ra như mắt cá ở hai bên đầu. Hai gò má như cặp táo tròn, căng bóng và khuôn miệng rộng hình thoi với cặp môi rất dày. Đầu của Somé gần như một quả cầu nhỏ tròn trịa. Trông ông ta giống một bức tượng gỗ mun, tác phẩm của một anh nghệ nhân lành nghề, một hôm đâm chán nên buồn tay đục gõ thành biếm họa.
Ông ta đưa bàn tay ra, cổ tay hơi uốn lại.
“À, cũng có chút giống Jonny đó chứ,” ông ta lên tiếng, nhìn thẳng vào mặt Strike. Ông ta nói eo éo, có âm hưởng giọng người phía Đông thành phố. “Nhưng dữ dằn hơn.”
Strike bắt tay ông ta. Ngón tay ông ta coi vậy mà siết rất chặt. Cô gái tóc đỏ cũng vừa leng keng quay lại.
“Một tiếng tới tôi bận rồi, không nhận cuộc gọi nào cả nhé Trudie,” Somé dặn dò cô ta. “Đem ít trà bánh lên luôn cưng.”
Ông ta quay người điệu đàng, mời Strike đi theo.
Hai người đi dọc theo hành lang sơn trắng, qua một cánh cửa mở sẵn. Một người đàn bà châu Á mũi tẹt khoảng cỡ tuổi trung niên đang khoát tấm vải mỏng dát vàng lên người hình nộm. Bà ta nhìn Strike chằm chằm qua lớp vải. Căn phòng quanh chỗ bà ta đứng bật đèn sáng trưng như phòng phẫu thuật, đầy những chiếc bàn cắt vải với vô số vải vóc chồng lên nhau. Trên tường dán rất nhiều các bản vẽ nháp, ảnh chụp và ghi chú. Một người đàn bà tóc vàng nhỏ nhắn xuất hiện. Strike thấy y như bà ta đang mặc trên người một đoạn gạc băng vết thương khổng lồ màu đen. Bà ta nhìn Strike, cũng kiểu lạnh lùng, ngây ngô như cô Trudie tóc đỏ lúc nãy. Strike thấy trong không gian này mình thật to lớn và lông lá, cứ như thể hắn là con voi ma mút xù xì đang tìm cách trà trộn vào bầy khỉ mũ nhỏ nhắn.
Hắn theo chân nhà thiết kế đang oai vệ đi về phía cuối hành lang, lên cầu thang xoắn ốc bằng thép và cao su. Trên đó là một khu văn phòng rộng lớn, sơn trắng, hình chữ nhật. Tường bên phải là cửa gương lớn chạy từ trần đến sàn, nhìn ra sông Thames và bờ nam rất hoành tráng. Những bức tường trắng còn lại đều có treo ảnh. Strike để ý đến ngay tấm ảnh dài chừng ba mét phóng lớn từ tác phẩm “Thiên thần mắc đọa” tai tiếng, treo trên bức tường đối diện bàn làm việc của Somé. Nhìn kỹ hơn hắn nhận ra kiểu ảnh hơi khác so với tấm hình đã được đăng khắp thế giới. Trong tấm ảnh này, Lula cười rũ rượi, hất đầu về phía sau. Cần cổ thẳng tắp nổi bật trên mớ tóc dài xộc xệch vì cười, để lộ nhũ hoa sẫm màu. Ciara Porter vẫn ngước nhìn Lula, gương mặt vẻ như sắp cười, dường như chỉ vừa kịp hiểu vì sao Lula cười. Cũng như trong tấm hình đã quá nổi tiếng, người xem lập tức bị Lula cuốn hút.
Lula có ở khắp nơi trong căn phòng. Ở bên trái, cô ta đứng chung với một nhóm người mẫu khác, mặc áo lót trong suốt bảy màu cầu vồng. Xa hơn một chút là một tấm chụp nghiêng, trên môi và mí mắt dán vàng lá. Phải chăng Lula luôn biết điều khiển gương mặt mình trước ống kính, để cảm xúc luôn được thể hiện một cách tuyệt mỹ? Hay gương mặt đó chỉ là một bề mặt trong veo, phản chiếu tự nhiên những cảm xúc của cô?
“Kê đít xuống đâu cũng được.” Somé lên tiếng, ngồi phịch xuống chiếc ghế đằng sau bàn làm việc bằng gỗ sẫm màu và thép, trên mặt bàn đầy những bản vẽ. Strike kéo ra một chiếc ghế làm bằng một dải nhựa dẻo trong uốn éo. Trên bàn còn có một áo thun in hình Công nương Diana, màu mè như kiểu thánh mẫu Mexico. Chiếc áo đính đầy thủy tinh và hạt cườm, thêm một trái tim đỏ chót bằng vải satin bóng có thêu hình vương miện đặt lệch.
“Anh thích không?” Somé hỏi khi thấy Strike đang nhìn chiếc áo.
“Ồ thích chứ.” Strike nói dối.
“Bán sạch hết, dân Công giáo gửi thư chửi rủa nào là bất kính với lại khiếm nhã, Joe Mancura mặc một cái như vậy trong show Jools Holland. Tôi đang nghĩ làm thêm một mẫu tay dài mặc mủa đông với hình Hoàng tử William kiểu Chúa Jeus. Hay là làm Hoàng tử Harry, cho ở truồng cầm khẩu AK47 che chỗ súng ống? Anh thấy sao?”
Strike mỉm cười cho phải phép. Somé bắt chéo chân, chỉnh tư thế điệu hơn mức cần thiết rồi lại lên tiếng, giọng màu mè kẻ cả:
“Vậy ra ông Kế toán nghĩ là Cuckoo bị giết? Tôi luôn gọi Lula là ‘Cuckoo’ ấy mà,” ông ta giải thích không cần thiết.
“Đúng vậy, nhưng John Bristow là luật sư.”
“Tôi biết, nhưng Cuckoo và tôi luôn gọi ông ta là ông Kế toán. Thực ra là tôi gọi, thỉ thoảng Cuckoo mới hùa theo, nếu đang bực ổng. Ông ta suốt ngày xía mũi vào phần trăm lời lãi của Cuckoo, làm gì với ai cũng bòn tới từng xu. Chắc lão trả thù lao cho anh cũng bèo lắm?”
“Thực ra ông ấy trả gấp đôi.”
“Ồ vậy sao. Chắc giờ có tiền của Cuckoo nữa nên hào phóng hơn được một chút.”
Somé cắn móng tay, nhìn ông ta Strike tự nhưng nhớ đến Kieran Kolovas-Jones. Hai người này có vóc dáng khá giống nhau, nhỏ con nhưng cân đối.
“Thôi được, nói vậy cũng hơi ác mồm,” Somé lên tiếng, bỏ tay ra khỏi miệng. “Tôi chưa bao giờ ưa nổi John Bristow. Ông ta lúc nào cũng kè kè đi theo Cuckoo. Người đâu chán bỏ mẹ. Giống như bóng kín vậy đó, làm bộ hoài. Anh nghe ông ta ca nguyên bài về bà mẹ chưa? Đã gặp bàbạn gái của ổng chưa? Nói không ngoa, đàn bà gì mà như đeo nguyên bộ râu.”
Somé bức xúc tuôn ra một tràng miệt thị rồi tạm tốp lại để mở ngăn kéo thiết kế ẩn dưới bàn, rút ra một gói thuốc lá bạc hà. Strike để ý thấy Somé cắn móng tay còn cụt ngủn.
“Gia đình vậy đó hỏi sao Cuckoo khỏi khùng khùng như vậy được. Tôi hay nói với nó, ‘Bỏ quách họ đi, cưng ơi, bỏ đi rồi mới sống tiếp được.’ Nhưng nó không bỏ. Cuckoo là vậy đó, cứ lo mấy chuyện phí công vô ích.”
Ông ta mời Strike một điếu thuốc trắng muốt, tay thám tử từ chối. Somé bật quẹt Zippo có khắc hình để đốt thuốc, rồi vừa đóng bập nắp lại, vừa nói:
“Phải chi lúc đó tôi nghĩ ra chuyện đi thuê thám tử tư. Trước giờ chưa hề mảy may nghĩ tới nữa mà. Tôi mừng là có người đứng ra thuê. Kkhông thể tin con bé tự tử. Bác sĩ tâm lý nói là tôi vẫn đang tự dối mình. Hiện giờ tôi phải làm tâm lý trị liệu một tuần hai lần, chẳng ăn thua nước mẹ gì. Nếu uống Valium mà vẫn làm việc được, chắc tôi cũng chơi cả đống như phu nhân Bristow. Một tuần sau vụ của Cuckoo tôi có thử qua nhưng nốc vô là dật dờ cả buổi. Nhưng chắc nhờ vậy mới chịu được hết đám tang.”
Lại tiếng leng keng lách cách báo hiệu Trudie đang tới gần. Cô ta đi lên cầu thang, dần dần ló ra trước mắt hai người. Trudie đặt lên bàn một cái khay bằng gỗ sơn mài đen đựng hai ly uống trà kiểu Nga có viền chạm bạc. Trong ly là một thứ nước màu xanh tái bốc khói với vài lá bạc hà héo thả nổi. Trên khay còn có một đĩa bánh quy mỏng dính, trông như làm bằng than đá. Strike rầu rĩ nhớ lại món bánh nhân thịt, khoai tây nghiền và tách trà sữa màu gỗ gụ ở quán Phoenix.
“Cảm ơn Trudie. Cưng tiện tay lấy luôn giùm cái gạt tàn.”
Cô gái ngập ngừng, như sắp phản đối.
“Đi đi,” Somé cằn nhằn. “Ở đây tôi là sếp, nếu muốn tôi đốt hết cái nhà này cho coi. Tháo cục pin ra khỏi mấy cái máy báo động đi. Nhưng mà đem gạt tàn lên đây trước đã.”
“Tuần trước máy báo cháy kêu ầm ĩ, rồi vòi nước tự động mở tứ tung dưới nhà.” Somé giải thích. “Vậy nên bây giờ mấy tay tài trợ cấm tụi tôi hút thuốc trong nhà. Cấm cái đít.”
Ông ta rít một hơi sâu rồi phả khói thuốc ra đằng mũi.
“Anh không hỏi han gì hả? Hay anh chỉ ngồi đó làm mặt ngầu tới khi nào có người chịu nhận tội?”
“Thì hỏi vậy.” Strike nói, rút ra cây sổ và cây viết. “Khi Lula chết anh còn đang ở nước ngoài phải không?”
“Tôi mới vừa về nước vài tiếng trước đó.” Ngón tay của Somé đặt trên điếu thuốc khẽ giật nhẹ. “Trước đó tôi ở Tokyo, suốt tám ngày hầu như không ngủ chút nào. Về tới phi trường Heathrow lúc mười rưỡi tối, bị lệch múi giờ, oải thấy ông bà ông vãi. Tôi không ngủ trên máy bay được. Lỡ máy bay có rơi thì còn biết.”
“Anh đi từ sân bay về bằng xe gì?”
“Taxi tại chỗ. Elsa quên không thuê xe riêng cho tôi. Đáng ra phải có tài xế chờ sẵn để đón chớ.”
“Elsa là ai vậy?”
“Là con bé thư ký sau đó bị tôi đuổi thẳng vì tội quên thuê xe. Tôi rất ghét phải đi tìm taxi vào giờ đó.”
“Anh sống một mình hả?
“Không. Tới nửa đêm tôi đã nằm trong chăn với Viktor và Rolf rồi. Hai đứa đó là mèo tôi nuôi,” Ông ta nói thêm, nhếch mép cười. “Tôi uống một viên Ambien, ngủ vài tiếng rồi tỉnh dậy khoảng hồi năm giờ sáng. Tôi bật kênh Sky News lên, một cha đội mũ lông cừu gớm ghiếc, đứng giữa tuyết ngay trước nhà Cuckoo nói là nó đã chết. Dòng tin chạy trên màn hình cũng ghi vậy.”
Somé rít thêm một hơi thuốc sâu, làn khói trắng bay ra khi ông ta mở miệng.
“Tôi sốc muốn chết theo luôn. Tôi tưởng mình vẫn còn ngủ, hay thức dậy ở một chiều không gian khác hay gì đó… Tôi bắt đầu gọi điện lung tung… Ciara, Bryony… máy ai cũng bận. Vừa gọi tôi vừa nhìn màn hình, hi vọng là họ sẽ báo tin có sự nhầm lẫn nào đó, rằng người vừa chết không phải là Cuckoo. Tôi thầm cầu nguyện người đó là cái con nhỏ bụi đời. Rochelle.”
Ông ta dừng lại, như thể đợi Strike bình luận. Hắn vừa cắm cúi ghi chép, vừa hỏi:
“Anh biết Rochelle à?”
“Có biết. Cuckoo mang nó vào đây một lần. Cái thứ la liếm.”
“Tại sao anh nói vậy?”
“Nó hận Cuckoo. Ganh ghét muốn nổ mắt mà. Tôi biết rõ, dù Cuckoo không nhận ra. Nó chơi với Cuckoo để kiếm chác chứ quan tâm gì chuyện Cuckoo còn sống hay đã chết. Cũng may cho nó, vì hóa ra…
"Vậy là tôi cứ ngồi đó coi tin tức, càng coi thì càng biết chắc không có sự nhầm lẫn nào cả. Tôi muốn quỵ ngã.”
Mấy ngón tay của ông ta run nhè nhẹ trên điếu thuốc trắng như tuyết đang hút dở.
“Họ nói là hàng xóm có nghe tiếng cãi nhau, nên ngay lập tức tôi nghĩ là Duffield. Tôi nghĩ hẳn Duffield đã xô Cuckoo qua cửa sổ. Lúc đó tôi sẵn sàng nói toạc cho đám lợn háo tin biết Duffield là thằng khốn như thế nào. Tôi sẵn sàng ra tòa làm chứng bản chất khốn nạn của nó. Và nếu bây giờ tàn thuốc rơi xuống đây,” ông ta nói tiếp, giọng điệu vẫn y chang không đổi. “Tôi sẽ đuổi thẳng cổ con đĩ con kia.”
Cứ như thể vừa nghe thấy ông ta nói gì, ngay lúc đó, tiếng bước chân dồn dập của Trudie mỗi lúc một lớn hơn. Cô ta bước vào phòng, thở hổn hển, tay nắm chặt cái gạt tàn thủy tinh nặng trịch.
“Cảm ơn cưng,” Somé nói, khẽ vẫy tàn thuốc khi cô ta vừa đặt gạt tàn xuống bàn rồi gấp gáp đi xuống cầu thang.
“Tại sao anh nghĩ là Duffield?” Strike hỏi khi đã chắc Trudie không thể nghe được.
“Cuckoo còn có thể mở cửa cho ai khác vào nhà lúc hai giờ sáng được?”
“Anh có biết rõ Duffield không?”
“Kha khá, một thằng vô tích sự.” Somé cầm ly trà bạc hà lên. “Tại sao đàn bà cứ đâm đầu vào những thằng như vậy? Cuckoo cũng vậy… nó không hề ngu ngốc chút nào, trái lại nó rất sắc sảo – vậy nó thấy gì ở cái thằng Evan Duffield đó? Để tôi nói anh nghe,” ông ta nói tiếp, không cần Strike trả lời. “Ba cái thứ thi sĩ quèn đau khổ nhảm nhí, nỗi đau tâm hồn cứt khô gì đó, rồi mấy trò thiên-tài-khổ-tâm-không-buồn-tắm-rửa. Thằng ranh, súc miệng cho sạch rồi hẵng mở ra. Cứ làm như mình là thi hào Byron cái quái gì.”
Ông ta đặt ly trà xuống, bàn tay trái đỡ lấy khuỷu tay phải, giữ vững cánh tay và tiếp tục rít thuốc thật sâu.
“Không thằng nào chịu nổi cái thứ như Duffield. Chỉ có bọn đàn bà. Một kiểu bản năng làm mẹ méo mó gì đó.”
“Anh nghĩ Duffield có thể ra tay giết Lula hay sao?”
“Tất nhiên là tôi nghĩ vậy,” Somé nói, thờ ơ. “Tất nhiên là nó ra tay được. Ai cũng có phần con, ai cũng sẵn chút máu giết người, thì tại sao Duffield lại là ngoại lệ? Thằng đó đầu óc như một đứa mười hai tuổi hỗn xược. Tôi có thể tưởng tượng ra hắn giận dữ, làm um sùm và rồi…”
Somé làm động tác xô một cú thật lực bằng cánh tay không cầm thuốc.
“Có lần tôi thấy nó chửi mắng con bé. Ngay tại tiệc sau show của tôi hồi năm ngoái. Tôi tới giữa hai người, nói có có ngon thì chơi thằng này. Tôi chỉ là một thằng bóng quèn,” Somé nói, hai gò má tròn trĩnh đanh lại, “nhưng lúc nào tôi cũng sẵn sàng tẩn cho thằng chó đó một trận. Hôm đi đám tang nó cũng khốn kiếp lắm.”
“Thật vậy sao?”
“Ừ. Lảo đảo đi quanh, phê thuốc trắng mắt. Không biết phép tắc cái quái gì. Hôm đó tôi cũng phải uống thuốc an thần, nếu không tôi đã tới nói hết vào mặt hắn. Còn giả vờ đau khổ nữa, cái thứ đạo đức giả.”
“Anh không bao giờ nghĩ là Lula tự tử?”
Cặp mắt lồi lạ lùng của Somé nhìn xoáy vào Strike.
“Không bao giờ. Duffield nói khi đó hắn đang đi mua thuốc, có đội mũ hóa trang chó sói. Bằng chứng ngoại phạm cái quỷ quái gì vậy? Mong là anh có kiểm tra kỹ lại cái thằng này. Đừng bị choáng ngợp trước nó, như đám cảnh sát.”
Strike nhớ lại nhận xét của Wardle về Duffield.
“Tôi nghĩ cảnh sát cũng không thấy Duffield choáng ngợp gì.”
“Hóa ra gu của họ cũng không đến nỗi tệ như tôi tưởng.” Somé đáp.
“Tại sao anh lại chắc chắn Lula không thể tự tử? Chẳng phải cô ấy từng bị bệnh tâm thần sao?”
“Đúng vậy, nhưng tụi tôi có hứa với nhau một chuyện, giống như Marilyn Monroe và Montgomery Clift. Tụi tôi thề là nếu đứa nào nghĩ tới chuyện tự tử thì phải gọi cho đứa kia. Nên chắc chắn nó đã gọi tôi, nếu nó định tự tử thật.”
“Lần cuối cùng anh nói chuyện với Lula là khi nào?”
“Nó gọi cho tôi hôm thứ Tư, khi tôi còn ở Tokyo,” Somé đáp. “Con nhỏ ngớ ngẩn, không nhớ đó với đây lệch nhau tới tám giờ. Tôi đã tắt chuông điện thoại nên lúc nó gọi hồi hai giờ sáng tôi không cầm máy, nhưng nó để lại tin nhắn, hoàn toàn không có vẻ gì là sắp nhảy lầu cả. Anh nghe này.”
Ông ta lại mở ngăn kéo bàn, lấy điện thoại ra, nhấn vài nút rồi đưa cho Strike.
Giọng Lula Landry vang lên thật gần, sống động, hơi khàn khàn ngay bên tai Strike. Cô ta cố tình giả giọng đân phía Đông thành phố để trêu Somé.
“Phẻ hông cưng ơi? Có chuyện này muốn nói, không chắc là cưng nghe xong sẽ thích nhưng mà là chuyện lớn thiệt. Em vui quá, chỉ muốn nói cho ai đó nghe. Khi nào được thì gọi ngay cho em. Ô kê, gọi liền nha,” cô ta kết thúc tin nhắn, giả vờ hôn vào điện thoại “muah muah”.
Strike trả điện thoại lại cho Somé.
“Vậy anh có gọi lại cho cô ấy không? Anh có biết chuyện lớn đó là chuyện gì không?”
“Không,” Somé dụi điếu thuốc, ngay lập tức rút ra thêm một điếu nữa. “Bọn Nhật xếp lịch họp liên tiếp, cứ mỗi khi tôi vừa định gọi thì lại kẹt vụ giờ giấc. Dù sao thì… nói thực với anh, có lẽ tôi biết nó sắp nói gì, tôi chẳng vui vẻ gì cả. Chắc nó có bầu.”
Somé gục gặc, điếu thuốc cắn trong miệng. Rồi ông ta lấy điếu thuốc ra và nói:
“Ừ đó, tôi nghĩ chắc Lula có bầu mẹ nó rồi.”
“Của Duffield?”
“Khi đó tôi vẫn mong là không phải vậy. Tôi chẳng biết vụ hai đứa nó quay lại với nhau. Cuckoo không dám quay lại với thằng đó nếu tôi vẫn còn ở Anh, vậy là nó đợi tôi đi Nhật, con nhỏ láo toét. Nó biết tôi ghét thằng kia nên không muốn làm phật ý tôi. Tụi tui như người trong nhà vậy.”
“Tại sao anh nghĩ là Lula có thai?”
“Nghe giọng nó. Anh nghe rồi đó – nó có vả rất phấn khích… Tôi ngờ ngợ vậy. Cuckoo hay làm những việc như vậy, rồi nghĩ là tôi cũng sẽ vui như nó, mặc kệ công việc, mặc kệ tôi với dòng hàng phụ kiện mới…”
“Có phải là hợp đồng năm triệu bảng mà anh cô ấy nói với tôi không?”
“Đúng vậy, tôi đoán lão Kế toán bắt nó phải đòi càng nhiều càng tốt,” Somé đáp, vẻ rất giận dữ. “Cuckoo không phải là người thích bòn tôi từng xu như vậy. Nó thừa biết vụ này sẽ rất hoành tráng, sẽ đưa nó lên một đẳng cấp mới nếu nó làm cho tôi. Đâu phải chuyện tiền bạc không. Hình ảnh của nó luôn đi liền với mấy thứ tôi làm. Nó chỉ thực sự nổi tiếng sau khi chụp choVogue một kiểu mặc áo đầm Jagged của tôi. Cuckoo mê đồ của tôi. Nó cũng khoái tôi. Nhưng đời là vậy. Cứ leo lên được một chút thì thiên hạ bắt đầu xúm vào tâng bốc, vậy là quên luôn ai đưa mình lên. Rồi tự dưng chỉ có tiền và tiền.”
“Nhưng ắt hẳn anh nghĩ cô ấy xứng đáng, mới chấp nhận trả năm triệu bảng?”
“Ừ thì vậy, nhưng tôi thiết kế nguyên loạt đó cho riêng nó, nên chẳng có gì hay ho nếu phải tranh thủ chụp ảnh để né vụ bầu bí. Và tôi cũng có thể tưởng tượng ra sau đó Cuckoo sẽ hành xử ngớ ngẩn ra sao. Nó sẽ bỏ hết vì không muốn xa con. Nó là kiểu người vậy đó, luôn đi tìm người khác để thương, luôn muốn có một gia đình riêng. Mấy người nhà Bristow phá đời nó hoàn toàn. Họ xin nó về như mua món đồ chơi mới cho Yvette, mụ đàn bà đáng sợ nhất thế gian.”
“Đáng sợ như thế nào?”
“Ích kỷ. Bịnh hoạn. Không muốn Cuckoo đi khỏi tầm mắt, sợ nó chết như cái đứa trước đó. Phu nhân Bristow thường đến dự tất cả các show, rất vướng chân vướng cẳng, cho tới khi phát bịnh mới chịu thôi. Rồi thêm ông cậu coi Lula như rác, cho tới khi nó kiếm được bộn tiền mới bày đặt nể nang. Đám người nhà Bristow chỉ biết có tiền.”
“Gia đình đó vốn giàu có, không phải vậy sao?”
“Alec Bristow chẳng để lại bao nhiêu, theo nghĩa đen. Thực tình chẳng có của cải gì ghê gớm. Không như ông già của anh đâu. Nhưng tại sao,” Somé tự nhiên đổi hướng câu chuyện, “con trai của Jonny Rokeby lại đi làm thám tử tư?”
“Việc ai người đó làm,” Strike đáp. “Nói tiếp về nhà Bristow đi.”
Somé không có vẻ gì là bực bội với cách nói chuyện không hề nhún nhường của Strike, dường như còn thích là đằng khác, có lẽ vì hiếm ai dám nói vậy với ông ta.
“Tôi chỉ nhớ Cuckoo kể là gia sản của Alec Bristow chủ yếu là cổ phiếu trong công ty cũ, mà công ty Albris thì từ hồi khủng hoảng đã te tua xơ mướp. Công ty quèn, có phải như Apple apiếc gì. Hồi chưa đầy hai mươi tuổi Cuckoo đã kiếm được nhiều tiền hơn cả đám đó.”
“Tấm kia,” Strike lên tiếng, chỉ tay về phía tấm hình “Thiên thần mắc đọa” khổng lồ ngay sau lưng Somé, “nằm trong hợp đồng năm triệu bảng phải không?”
“Đúng vậy,” Somé đáp. “Bốn cái túi xách đó mở đầu cho chiến dịch quảng cáo. Cái Cuckoo đang cầm trong tay là “Cashile”. Tôi đặt tên châu Phi cho tất cả mấy cái túi đó, cũng vì Cuckoo. Nó rất mê châu Phi. Nó đào đâu ra được một bà mẹ đĩ điếm, nói rằng cha nó là người châu Phi. Vậy là Cuckoo mê mệt luôn, chưa gì đã nói chuyện đi học ở đó, rồi đi làm tình nguyện… mà không hề nghĩ là con đĩ già kia có khi từng ngủ với khoảng năm mươi thằng đen Caribe cũng có. Châu Phi gì. Con mụ đó chỉ nói cho Cuckoo sướng tai.”
“Vậy anh quyết định vẫn tiếp tục dùng tấm hình đó trong chiến dịch quảng cáo sắp tới, ngay cả khi Lula vừa mới…”
“Báo biếc khốn nạn. Tấm hình đó là để tưởng niệm nó!” Somé lớn tiếng. “Đó là tấm hình đẹp nhất của nó từ trước đến giờ. Tôi dùng tấm hình để tưởng nhớ Cuckoo, để nhớ đến hai đứa tụi tôi. Cuckoo là nàng thơ của tôi. Nếu mấy thằng khốn đó không hiểu nổi thì kệ chúng nó, vậy thôi. Báo chí ở cái xứ này chẳng ra cái quái gì. Cứ tưởng ai cũng rác rưởi như mình.”
“Hôm trước khi Lula chết có người gởi cho cô ấy mấy cái túi xách…”
“Đúng rồi, là của tôi đó. Tôi gởi mỗi kiểu một cái.” Somé vừa nói vừa chỉ về phía tấm hình bằng đầu thuốc lá. “Tôi cũng luôn tiện gởi cho Deeby Macc vài thứ.”
“Ông ta đặt hàng hả, hay…?”
“Của chùa, cưng à.” Somé dài giọng. “Làm ăn phải vậy. Vài cái áo thun dày liền mũ thiết kế riêng và mấy thứ phụ kiện. Cứ cho sao siếc khoác vào thì không trật được.”
“Ông ta có mặc mấy thứ đó không?”
“Tôi không biết,” giọng Somé trầm xuống. “Ngay hôm sau đã phải nghĩ nhiều chuyện khác.”
“Tôi có xem một đoạn phim của Deeby Macc trên YouTube. Ông ta mặc một cái áo có đính khuy như cái này,” Strike nói, chỉ tay vào ngực Somé. “Có hình nắm đấm.”
“Đúng rồi, tôi có gởi cái áo đó với vài thứ khác. Chắc người ta chuyển lại. Một cái có hình nắm đấm, một cái có hình súng ngắn, đằng sau lưng in lời bài hát.”
“Lula có nói với anh chuyện Deeby Macc sắp dọn vào đó không?”
“Có chứ. Nó cũng rất vui, nhưng đáng ra phải vui hơn nữa kia. Tôi cứ nói với nó, cưng à, nếu mà ông ta viết đến ba bài hát về tôi, thì tôi sẽ lột sạch đồ đứng chờ sẵn trong nhà.” Somé phả ra hai vệt khói dài từ lỗ mũi, liếc ngang qua Strike. “Tôi khoái mấy tay to con, dữ dằn vậy,” ông ta nói. “Nhưng Cuckoo thì không. Thì cứ nhìn cái thằng bồ của nó đó. Tôi cứ nói, cưng suốt ngày đi tìm gốc gác, thôi thì kiếm quách một anh đen tử tế cho xong. Deeby chẳng hạn, quá hợp, không phải vậy sao?”
“Show mùa rồi của tôi cho nó đi trên nền nhạc bài Butterface Girl của Deeby. ‘Con kia có là gì / Liệu mà tìm gương soi / Kiếm cái nào nói thiệt / Cưng bớt xoắn đi ha / Cưng cóc phải Lula.’ Duffield rất ghét chuyện đó.”
Somé im lặng một lát, tiếp tục hút thuốc, mắt vẫn dán vào tấm hình trên tường. Strike hỏi:
“Nhà anh ở đâu? Gần đây không?” mặc dù hắn đã biết trước câu trả lời.
“Không, tôi ở phố Charles, Kensington,” Somé đáp. “Dọn qua đó hồi năm ngoái. Rất xa Hackney nhưng mà phải dọn thôi. Ồn ào quá. Tôi lớn lên ở Hackney,” ông ta giải thích, “hồi đó tên thiệt khi chưa tiếng tăm gì là Kevin Owusu. Tôi đổi tên khi bỏ nhà đi. Giống anh vậy.”
“Tôi chưa bao giờ mang họ Rokeby cả,” Strike vừa nói vừa lật một trang sổ. “Bố mẹ tôi không cưới xin gì.”
“Vụ đó ai cũng biết cưng à,” Somé nói, nhìn đểu một cái. “Năm ngoái tôi soạn đồ cho ông già anh chụp một tấm cho tạp chí Rolling Stone: complet bó sát và mũ quả dưa vỡ. Anh có hay gặp ông ta không?”
“Không,” Strike ngắn gọn.
“Không à, chắc vì hai người mà đứng chung thì Jonny trông còn già ác nữa?” Somé nói, cười khanh khách. Ông ta loay hoay xoay trở trên chiếc ghế, đốt thêm một điếu nữa, ngậm giữa môi và nheo mắt nhìn Strike qua làn khói thuốc bạc hà.
“Tại sao lại nói chuyện đời tôi nhỉ? Người ta có hay kể lể chuyện đời họ mỗi khi anh rút cuốn sổ đó ra không?”
“Thi thoảng.”
“Anh không muốn uống trà hả? Tôi chẳng trách gì anh. Tôi chẳng biết tại sao lại uống cái thứ dở hơi này. Ông già tôi chắc lên cơn đau tim nếu hỏi xin một tách trà mà bị đưa thứ này.”
“Gia đình anh còn ở Hackney không?”
“Không biết,” Somé nói. “Tôi không nói chuyện với họ. Tôi dạy Lula cái gì thì thực hành y như vậy, thấy chưa?”
“Anh nghĩ vì sao mà Lula đổi họ vậy?”
“Vì nó rất ghét gia đình nó, cũng như tôi vậy. Nó chẳng muốn dính gì tới họ nữa.”
“Vậy tại sao lại đi lấy họ của ông cậu Tony?”
“Ông đó không nổi tiếng. Lula Landry nghe cũng hay. Deeby làm sao viết được bài Double L U B Mine[1] nếu nó vẫn tên Lula Bristow?”
[1. Hai chữ L, em thuộc về tôi.]
“Phố Charles cũng khá gần Kentigern Gardens nhỉ?”
“Đi bộ hai mươi phút. Tôi muốn Cuckoo dọn vô ở chung với tôi khi nó nói không chịu được chỗ cũ nữa, nhưng nó không đồng ý, mà chọn cái nhà tù năm sao đó, chỉ để trốn đám báo chí. Chính tụi nó đẩy Cuckoo vào cái nhà đó. Tụi nó cũng có trách nhiệm trong vụ này.”
Strike nhớ lại lời Deeby Macc: Chính báo giới chết giẫm đã xô cô ta ra cửa sổ.
“Nó có dẫn tôi đến xem nhà. Khu Mayfair, toàn là dân Nga và dân Ả Rập giàu sụ với cả mấy thằng chó đẻ như Freddie Bestigui. Tôi có nói, cưng ơi, không sống ở đây được đâu, nhìn đâu cũng thấy đá cẩm thạch, ở xứ này mà xài đá thì quê lắm… còn sống mà chui vô lăng làm gì…”
Ông ta ngập ngừng một lúc, rồi nói tiếp:
“Mấy tháng trước đó Cuckoo gặp nhiều chuyện rất đau đầu. Một thằng rình mò cứ tới ba giờ sáng là bỏ thư vào nhà nó, mỗi lần có tiếng động thùng thư là Cuckoo lại tỉnh dậy. Thằng đó hăm dọa đủ điều, làm Cuckoo rất sợ hãi. Rồi nó chia tay thằng Duffield, vậy là bọn nhà báo suốt ngày chờ chực quanh đó. Cuckoo phát hiện ra đến điện thoại của nó cũng bị nghe lén. Rồi tới chuyện đi tìm con đĩ già mẹ ruột đó. Nhiều thứ cùng lúc quá. Nó muốn tránh xa hết, muốn được yên ổn. Tôi đã bảo nó dọn vô ở với tôi, vậy mà nó đi mua cái lăng chết tiệt đó.”
“Nó mua chỗ đó vì thấy giống như cái pháo đài, giờ nào cũng có bảo vệ. Nó cứ tưởng là sẽ được an toàn, không ai đụng tới nó nữa.”
“Nhưng ngay từ đầu nó đã không ưa gì chỗ mới. Tôi biết mà. Nó bị cô lập, ở xa những thứ nó yêu thích. Cuckoo mê màu sắc, tiếng ồn. Nó thích phố xá, thích đi bộ, thích cảm giác tự do.”
“Một trong những lý do khiến cảnh sát loại trừ có sát nhân là cửa sổ lúc đó mở toang. Cuckoo đã tự mở cửa sổ, dấu vân tay còn trên đó. Nhưng tôi biết vì sao nó mở cửa. Cuckoo luôn mở cửa sổ, mặc dù bên ngoài lạnh tê tái, vì nó không chịu nổi sự yên lặng. Nó thích nghe được cả London.”
Somé không còn chút gì mỉa mai đểu giả nữa. Ông ta hắng giọng rồi nói tiếp.
“Nó luôn cố kết nối với những thứ có thật, sống động. Hai đứa tụi tôi rất hay nói về chuyện đó. Tụi tôi thực sự đồng cảm với nhau. Cuckoo qua lại với con khốn Rochelle cũng từ chỗ đó. Kiểu ‘trông người mà ngẫm tới ta’. Cuckoo nghĩ nếu nó không xinh đẹp, nếu nhà Bristow không xin nó về làm đồ chơi cho Yvette thì có khi đời nó cũng như Rochelle mà thôi.”
“Anh nói thêm về cái tay rình mò Lula ở nhà cũ đi.”
“Thằng điên. Hoang tưởng Lula là vợ hắn hay đại loại gì đó. Sau đó thì bị quản thúc và bắt điều trị tâm thần bắt buộc.”
“Có biết giờ tay đó ở đâu không?”
“Tôi nhớ hình như bị tống cổ về Liverpool,” Somé trả lời. “Nhưng bên cảnh sát có kiểm tra rồi, họ nói đêm đó hắn ta vẫn ở trong nhà thương điên có canh gác cẩn thận.”
“Anh có biết ông bà Bestigui không?”
“Chỉ biết qua lời Lula thôi, cha đó tởm lợm còn mụ vợ thì giả từ đầu tới chân như tượng sáp. Tôi không cần gặp cũng biết. Tôi biết cái thể loại đó. Gái nhà giàu chuyên xài tiền chồng. Show nào của tôi cũng có mặt. Xắng xít làm quen. Nói thật, thà chơi với đĩ còn hơn.”
“Freddie Bestigui có gặp Lula tại một bữa tiệc cuối tuần trước khi cô ấy chết.”
“Ừ, tôi cũng có biết. Lão thèm Lula chảy dãi,” Somé nói như không. “Nó cũng biết chứ, có phải chuyện lạ đời gì với nó đâu, anh biết đó. Nhưng lão ta không làm gì được nó, cùng lắm chỉ đứng chung trong thang máy thôi, theo như lời Lula kể.”
“Anh không nói chuyện với Lula sau khi cô ấy đến dự tiệc cuối tuần ở nhà Dickie Carbury, đúng không?”
“Đúng vậy. Lão ta làm gì ở đó hả? Anh không nghĩ là lão ta đó chứ?”
Somé ngồi thẳng dậy, nhìn chằm chằm vào Strike.
“Khốn nạn… Freddie Bestigui? Lão mất dạy, tôi biết mà. Tôi có quen con nhỏ này… đúng ra là bạn của một người bạn… nó làm cho công ty sản xuất phim của lão, sém bị hiếp. Không, tôi chẳng nói quá chút nào đâu,” Somé đáp. “Sự thật là vậy. Hiếp. Hết giờ làm lão chuốc rượu cho nó rồi đè ra sàn, vừa lúc có một đứa nhân viên quên điện thoại quay lại văn phòng lấy, bắt gặp cảnh đó. Bestigui bịt miệng cả hai bằng tiền. Ai cũng xúi con nhỏ kiện lão, nhưng nó cầm tiền rồi bỏ đi luôn. Họ cũng nói là hồi xưa lão hay có trò xử phạt bà vợ thứ hai cũng bệnh hoạn lắm, vì vậy mà hồi li dị bà ta mới cuỗm được ba triệu, sau khi hù là sẽ tung ra hết với báo chí. Nhưng không bao giờ có chuyện Cuckoo mở cửa cho lão vào nhà lúc hai giờ sáng. Tôi nói rồi, Cuckoo không phải là đứa ngu.”
“Anh biết gì về Derrick Wilson?”
“Thằng nào vậy?”
“Bảo vệ trực đêm đó.”
“Không biết gì cả.”
“Ông này to con, nói giọng Jamaica.”
“Nói nghe đừng sốc, dân da đen ở London này không phải ai cũng biết nhau đâu.”
“Tôi chỉ muốn hỏi liệu anh có bao giờ nói chuyện với ông ta không, hay Lula có nói gì về ông ta không?”
“Không, tụi tôi nói nhiều chuyện khác hay ho hơn chuyện ông bảo vệ.”
“Cũng không nhắc tới anh lái xe Kieran Kolovas-Jones?”
“À, tay đó thì biết,” Somé đáp, nhếch mép. “Cứ xớn xác tạo dáng mỗi khi tưởng tôi đang nhìn ra cửa sổ. Đáng tội là thiếu khoảng thước rưỡi mới đủ làm người mẫu.”
“Lula có bao giờ nói về anh ta không?”
“Không, tại sao chứ?” Somé sốt ruột hỏi. “Nó chỉ là thằng lái xe.”
“Anh ta nói là anh ta rất gần gũi với Lula. Anh ta còn kể là được Lula tặng áo khoác do anh thiết kế. Giá chín trăm bảng.”
“Bở gớm nhỉ,” Somé nói, khinh ra mặt. “Mấy món đàng hoàng của tôi thì tệ cũng phải ba ngàn một cái. Tôi đắp phứa logo lên mấy cái áo khoác chống thấm vậy mà bán chạy kinh khủng, nên tội gì không làm.”
“À, tôi sắp hỏi cũng chuyện đó,” Strike bói. “Áo như vậy thuộc dòng hàng đồ-may-sẵn, đúng không?”
Somé tỏ vẻ buồn cười.
“Đúng rồi. Tức là không phải đồ-may-đo-riêng, hiểu không? Có thể mua thẳng từ cửa hàng.”
“Hiểu rồi. Mấy thứ đó có bán rộng rãi không?”
“Ở đâu cũng có. Lần gần đây nhất anh đi mua sắm đó là khi nào vậy?” Somé hỏi, cặp mắt lồi kì dị của ông ta soi một vòng trên bộ complet màu xanh đậm của Strike. “Đồ kiểu gì vậy, áo quần phục viên hả?”
“Anh nói ‘ở đâu cũng có là sao?”’
“Trung tâm mua sắm, hiệu áo quần nhỏ, trên mạng,” Somé nói một mạch. “Tại sao anh hỏi vậy?”
“Một trong hai người đàn ông lọt vào camera an ninh hôm đó mặc một cái áo có logo của anh."
Somé khẽ lắc đầu, tỏ ý bất bình, khó chịu.
“Thì có cả triệu người mặc mà.”
“Anh không thấy...”
“Tôi không xem cái quái gì cả,” Somé giận dữ đáp. “Tất cả mọi thứ... báo biếc đài điếc. Tôi không muốn đọc gì hết, không muốn suy nghĩ về chuyện đó nữa. Tôi bắt tụi nó phải dẹp hết, không được để tôi thấy,” ông ta đáp, huơ tay về phía cầu thang và đám nhân viên của mình. “Tôi chỉ biết là Cuckoo đã chết rồi còn Duffield thì hành động như người có chuyện gì cần phải giấu diếm. Tôi chỉ biết có vậy. Vậy là đủ rồi.”
“Thôi được. Nói chuyện áo quần, trong tấm hình cuối cùng của Lula, lúc mới về nhà cô ấy mặc đầm và áo khoác...”
“Đúng vậy, nó mặc Maribelle và Faye,” Somé đáp. “Mẫu đầm tên là Maribelle...”
“Hiểu rồi,” Strike đáp, “Nhưng khi chết thì lại mặc đồ khác.”
Somé có vẻ ngạc nhiên.
“Vậy sao?”
“Vâng. Trong hồ sơ cảnh sát, thi thể...”
Nhưng Somé đưa cánh tay ra, như muốn xua đuổi hay tự vệ. Rồi ông ta đứng dậy, thở mạnh và đi tới bức tường, nơi có những tấm ảnh của Lula mỉm cười, nụ cười lúc đăm chiêu, lúc bình thản. Khi tay thiết kế quay lại nhìn Strike, đôi mắt lồi của ông ta ngân ngấn nước.
“Khốn nạn,” ông ta nói, giọng thầm thì. “Đừng nói về Lula như vậy chứ. Thi thể. Khốn nạn. Anh là một thằng con hoang máu lạnh, phải vậy không? Chẳng trách Jonny không thiết gì anh.”
“Tôi không có ý bất nhã,” Strike bình tĩnh đáp. “Tôi chỉ muốn biết liệu anh có nghĩ ra được lý do vì sao cô ấy mặc quần dài và áo đính kim sa.”
“Tôi làm quái gì mà biết được vì sao nó lại thay đồ?” Somé hỏi, giận dữ. “Có thể nó thấy lạnh. Có thể... Thật là nực cười. Anh nghĩ làm sao tôi biết được?”
“Tôi chỉ hỏi thôi,” Strike đáp. “Tôi đọc đâu đó anh nói với báo chí rằng khi chết Lula mặc đồ do anh thiết kế.”
“Không phải tôi, tôi không có phát biểu gì sất. Một đứa làm báo lá cải gọi điện cho văn phòng công ty và hỏi tên của mẫu đồ đó. Một đứa thợ may trả lời, vậy là tụi nó phong con nhỏ thành phát ngôn viên của tôi. Rồi suy luận là tôi dây máu ăn phần, bọn khốn nạn. Chó chết.”
“Anh có thể giúp tôi gặp Ciara Porter và Bryony Radford được không?”
Somé có vẻ mất bình tĩnh, bối rối.
“Gì kia? Được thôi...”
Nhưng ông ta đã bắt đầu khóc, không nấc từng tiếng như Bristow, chỉ có nước mắt chảy dài trên hai gò má sẫm màu trơn mịn, nhỏ giọt xuống chiếc áo đang mặc. Ông ta nuốt khan, nhắm mắt lại, quay lưng về phía Strike, úp trán vào tường, hai vai rung lên.
Strike im lặng, chờ đợi. Somé đã lau nước mắt vài lần, rồi quay lại nhìn hắn. Ông ta không nói gì đến chuyện khóc lóc, chỉ đi thẳng về ghế, ngồi xuống và đốt một điếu thuốc nữa. Rít thêm khoảng hai ba hơi thuốc thật sâu, ông ta lên tiếng giọng thản nhiên như không:
“Nếu nó thay quần áo thì có lẽ là đang chờ ai đó đến. Cuckoo lúc nào cũng ăn mặc rất hợp hoàn cảnh. Chắc hẳn nó đang chờ ai đó.”
“Tôi cũng nghĩ vậy,” Strike nói. “Nhưng tôi không rành phụ nữ và áo quần lắm.”
“Rõ là không,” Somé đáp, lai thoáng cười ranh mãnh, “anh cũng không có vẻ gì là rành rõi cả. Vậy anh muốn nói chuyện với cả Ciara và Bryony hả?”
“Được vậy sẽ rất có ích.”
“Tụi nó có buổi chụp hình vào thứ Tư tới. Số một phố Arlington ở Islingdon. Nếu anh tới khoảng chừng năm giờ, tụi nó sẽ rảnh tay nói chuyện được với anh.”
“Anh thật tử tế. Cảm ơn nhiều.”
“Tôi chẳng tử tế gì cả,” Somé nói nhỏ. “Tôi chỉ muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Khi nào thì anh mới gặp Duffield?”
“Ngay khi có thể.”
“Nó cứ nghĩ là nó thoát rồi, thằng chết giẫm. Ắt hẳn Cuckoo thay đồ vì biết nó sẽ tới. Ngay cả khi tụi nó vừa cãi nhau, Cuckoo vẫn biết là thế nào nó cũng đi theo về. Nhưng thằng Duffield sẽ không nói năng gì với anh đâu.”
“Anh ta sẽ nói,” Strike bình thản đáp, cất cuốn sổ và xem giờ. “Hôm nay tôi làm mất nhiều thời gian của anh quá. Một lần nữa, cảm ơn anh.”
Somé tiễn Strike xuống cầu thang, dọc theo hành lang sơn trắng. Phong thái nghênh ngang của ông ta dần dần trở lại. Tới khi hai người bắt tay tạm biệt ở sảnh, Somé không còn dấu hiệu đau khổ nào nữa.
“Giảm cân đi,” ông ta nói với Strike, thọc cú cuối cùng, “rồi tôi sẽ gởi vài thứ size XXL.”
Khi cánh cửa khu nhà kho đóng sầm sau lưng Strike, hắn nghe tiếng Somé hét lên với cô Trudie tóc màu cà chua đang đứng ở bàn, “Biết cưng nghĩ gì rồi nhé, Trudie. Cưng đang mơ mộng được cha đó đứng đằng sau làm cho một phát, đúng không? Không phải vậy sao cưng? Sướng chưa, dân lính tráng to con dữ dằn ha!” và tiếng Trudie cười ré lên kinh ngạc.

Chương trước Chương sau