Giờ nầy anh ở đâu - Chương 10

Giờ nầy anh ở đâu - Chương 10

Giờ nầy anh ở đâu
Chương 10

Ngày đăng
Tổng cộng 78 hồi
Đánh giá 9.5/10 với 57308 lượt xem

Tôi không thực sự chắc chắn về điều mình kỳ vọng khi bước chân vào tòa nhà đó trên đại lộ West End. Tôi nhớ Mack đã cho tôi xem căn hộ sau khi anh dọn ra khỏi ký túc xá ở Columbia. Lúc ấy anh đang bắt đầu năm học cuối cùng, còn tôi vừa bước sang tuổi mười lăm.
Bởi anh sống ngay trong thành phố, nên không cần cha mẹ và tôi đến thăm anh ở đó. Thay vì vậy, anh ghé qua nhà hay gặp gỡ chúng tôi thường xuyên ở một nhà hàng. Tôi biết sau khi anh mất dạng, cha mẹ tôi đã đi đến nói chuyện với những người bạn cùng phòng của anh và những người khác trong tòa nhà, nhưng họ chẳng bao giờ để tôi đi cùng với họ đến đó. Mùa hè thứ nhất, họ đã buộc tôi quay về trường trong khi tất cả những gì tôi muốn làm là giúp họ cùng tìm kiếm anh trai tôi.
Hóa ra tôi lại thấy mừng vì gia đình Kramer không thể gặp tôi cho đến tận bây giờ. Ngày hôm qua mẹ đã dẫn tôi đi ra ngoài cả ngày, mua sắm đôi chút vào phút cuối cho chuyến du hành của bà. Thế rồi bản tin lúc mười một giờ đêm qua kể câu chuyện về một sinh viên Đại học New York đã biến mất dạng sáng sớm ngày hôm qua sau khi rời khỏi một quán rượu ở SoHo. Có một bức ảnh người cha và anh của cô gái ấy đang rời khỏi tòa nhà căn hộ trong khu Làng và tôi choáng váng nhận ra rằng nó chỉ kế ngay bên tòa nhà của tôi thôi. Tôi cảm thấy đau đớn cho họ.
Không khoản tiền nào có thể thuyết phục mẹ rằng việc sống ở khu Làng thì cũng an toàn y như ở Sutton Place. Đối với bà, Sutton Place là nơi trú ẩn, một mái ấm mà bà và cha tôi đã vui sướng mua được khi bà đang mang thai tôi. Thoạt tiên đó là một căn hộ một tầng, có sáu phòng lớn, nhưng khi cha tôi ngày càng thành công hơn, ông đã mua lại căn hộ bên trên và biến nó thành căn hộ kép với kích cỡ tăng gấp đôi.
Giờ đây, đối với tôi, nó giống như một nhà tù, nơi cho đến tận bây giờ mẹ tôi cứ mong lắng nghe, luôn mong lắng nghe tiếng chìa khóa vặn vào trong cửa và Mack sẽ gọi to lên: “Con đã về nhà rồi”. Đối với tôi, niềm tin rằng anh ấy sẽ quay về đã trở thành nỗi tuyệt vọng, một sự buồn thảm chẳng bao giờ rời bỏ chúng tôi. Tôi cảm thấy ích kỷ khủng khiếp. Tôi yêu thương Mack, người anh lớn của tôi, người bạn thân thiết của tôi. Nhưng tôi không còn muốn cầm giữ chuyện này trong cuộc đời tôi lâu hơn nữa. Ngay cả cái quyết định chờ đợi trước khi nộp đơn xin việc tại văn phòng Chưởng lý quận cũng chỉ vì thực tế là nếu được tuyển, tôi sẽ không còn chút thời gian nào rảnh rỗi nữa. Tất cả cũng chỉ vì nỗ lực muốn tìm ra Mack, và nếu thất bại, tôi tự hứa rốt cuộc sẽ đi theo cuộc sống riêng của mình. Tôi đã trải qua gần hết ba tuần lễ này ở Sutton Place trong lúc mẹ tôi đi vắng, vậy mà vẫn chẳng thấy an toàn - cứ như thể Mack có cách nào đó biết được tôi đang bắt đầu nói chuyện với những ai từng gần gũi với anh và anh cố gắng gọi cho tôi.
Tòa nhà này, nơi Mack từng sống trong đó, thật cũ kỹ, mặt tiền cẩn đá xám thật phổ biến ở New York đầu thế kỷ hai mươi, nhưng lề đường đi bộ và các bậc tam cấp thì sạch sẽ, tay nắm cửa phòng ngoài được đánh bóng. Cái cửa ấy không khóa và dẫn vào một phòng giải lao hẹp, nơi người ta có thể quay số điện thoại một căn hộ và được đưa vào trong, hoặc sử dụng một cái chìa khóa mở cánh cửa dẫn vào tiền sảnh.
Tôi đã nói chuyện với bà Kramer và tôi thực sự không hiểu tại sao, nhưng dẫu thế nào tôi vẫn kỳ vọng được nghe giọng nói của bà ấy trên máy điện thoại nội bộ. Nhưng thay vì vậy, một người đàn ông đã trả lời và hướng dẫn tôi đi đến căn hộ ở tầng trệt của họ.
Khi tôi bước vào, cánh cửa căn hộ 1B đã mở rồi, và một người đàn ông đang chờ tôi trong đó, ông ta tự giới thiệu là Gus Kramer, người giám thị. Khi xem qua hồ sơ sáng nay, tôi nhớ cha tôi đã nói chuyện về ông ấy. “Gã này lo lắng rằng hắn sẽ bị đổ lỗi về việc Mack biến mất nhiều hơn là hắn lo lắng đến điều gì đó đã xảy ra cho Mack. Và vợ hắn còn tệ hơn. Bà ta trơ tráo nói rằng ông Olsen sẽ phiền lòng. Cứ như thể chúng ta cần phải quan tâm đến chủ nhân của khu bất động sản được tân trang đó vậy”.
Thật buồn cười khi sửa soạn ăn mặc chỉnh tề để đến căn hộ này, tôi cứ thay đổi ý định về việc nên mặc cái gì. Thực sự tôi đã định mặc bộ quần áo đồng màu, cái bộ tôi vẫn mặc đến tòa án khi còn làm việc với vị thẩm phán ấy, nhưng dẫu sao nó trông quá sức trịnh trọng. Tôi muốn gia đình Kramer cảm thấy thoải mái với tôi. Tôi muốn họ nhìn tôi như đứa em gái nhỏ của Mack càng nhiều càng tốt, để họ sẽ thích tôi và sẽ muốn giúp đỡ tôi. Đó là lý do tại sao tôi quyết định mặc cái áo len cotton tay dài, quần jean và đi sandal. Như điềm báo cho sự thành công, tôi đã đeo sợi dây chuyền Mack tặng nhân sinh nhật thứ mười sáu của tôi. Có hai món đồ xinh xắn bằng vàng trên đó, một là cái ván trượt băng, còn cái kia là quả banh trong môn bóng đá, để tôn vinh hai môn thể thao mà tôi ưa thích.
Sau khi Gus Kramer tự giới thiệu rồi mời tôi vào, lúc đó giống như đang quay ngược về thời gian quá khứ vậy. Bất chấp sự thành công của cha, ông chẳng bao giờ có thể làm bà tôi nhúc nhích ra khỏi căn hộ ở Jackson Heights, Queens. Căn hộ này cũng có bộ đồ gỗ bọc nhung, tấm thảm Ba Tư được dệt bằng máy và những cái bàn bọc da bốn góc trên mặt như của bà tôi. Chỉ có vật duy nhất dường như không ở đúng chỗ đó là cái bàn cà phê bằng kính.
Ấn tương đầu tiên của tôi về Gus và Lil Kramer ở chỗ họ là loại người ngày càng trở nên giống nhau sau nhiều năm tháng sống chung. Mái tóc xám màu thép của bà giống y hệt như ánh màu tóc của ông ta. Họ là những người có chiều cao thấp hơn mức trung bình một chút, với cơ thể cứng cáp. Cặp mắt họ màu xanh da trời nhạt tương xứng, và không thể nào nhầm được sự cảnh giác trên cả hai khuôn mặt khi họ trao cho tôi nụ cười đầy vẻ bực dọc.
Thực ra còn có người thứ ba trong căn phòng, có vẻ như là chủ nhân. “Cô MacKenzie, tôi rất vui mừng được gặp cô. Tôi là Howard Altman, quản lý khu vực quận các bất động sản của ông Olsen. Tôi không có mặt ở thời điểm anh trai cô biến mất, nhưng tôi biết ông Olsen đã - và vẫn còn - quan tâm đến việc này như thế nào. Tại sao chúng ta không cùng ngồi xuống và để cô có thể nói với chúng tôi xem chúng tôi có thể giúp gì được cho cô?”
Tôi có thể cảm thấy được sự bất bình mà gia đình Kramer có đối với việc Altman can thiệp vào vấn đề này, nhưng đối với tôi, việc này lại khiến tôi dễ dàng hơn khi đưa ra bài diễn văn đã hoạch định. Tôi ngồi xuống mép ghế gần nhất và tự giới thiệu mình với hắn ta. “Hiển nhiên như ông biết, anh trai tôi, Mack đã biến mất cách đây mười năm. Hoàn toàn chẳng có vết tích gì về anh ấy kể từ đó. Nhưng thực sự anh ấy vẫn gọi điện thoại cho chúng tôi hằng năm vào Ngày của Mẹ như anh ấy đã làm cách đây vài ngày. Tôi có nghe điện thoại lúc anh ấy nói chuyện với mẹ tôi và thề là tôi sẽ tìm cho ra anh ấy. Sau đó, anh ấy đi đến St. Francis, nhà thờ trong khu vực lân cận này, nơi chú tôi là mục sư, và để lại một bức thư ngắn cho tôi, cảnh cáo tôi phải đứng sang một bên. Vì vậy tôi e sợ rằng Mack đang gặp rắc rối gì đó và xấu hổ không muốn xin trợ giúp”.
“Một lá thư ngắn à!” Sự cảm thán của Lil Kramer khiến tôi ngưng lại. Tôi sửng sốt khi trông thấy đôi má bà trở nên đỏ bừng và cử chỉ vô thức của bà khi vươn tay ra, chụp lấy tay chồng. “Cô muốn nói là cậu ấy đã đến St. Francis và để lại một bức thư ngắn cho cô à?” Bà ấy hỏi.
“Vâng, tại buổi lễ Misa lúc mười một giờ. Tại sao điều đó lại làm bà ngạc nhiên hở bà Kramer? Cháu biết trong nhiều năm tháng đã có những bài viết về sự mất dạng của anh cháu và thực tế là anh ấy vẫn liên lạc với gia đình cháu cơ mà”.
Gus Kramer trả lời thay cho vợ. “Cô MacKenzie, vợ tôi luôn cảm thấy kinh khủng về việc của anh trai cô. Cậu ấy là một trong những đứa trẻ lễ độ nhất, tử tế nhất mà chúng tôi từng có ở đây”.
“Đó là điều ông Olsen nói”. Howard Altman bảo với tôi. Rồi hắn ta mỉm cười. “Cô MacKenzie, hãy để tôi giải thích này. Ông Olsen ý thức được rằng những cạm bẫy xảy ra ngày nay vào thời đại này với những người trẻ tuổi, thậm chí những người trẻ được thiên phú thật thông minh, trí thức đấy. Ông ấy luôn quanh quẩn ở đây để đón chào các sinh viên mới. Bây giờ thì ông ấy đã ngừng có mặt ở đây, nhưng ông ấy kể cho tôi nghe rằng ông đã có ấn tượng ra sao với cha mẹ cô và anh trai cô. Và tôi có thể nói với cô rằng gia đình Kramer đã luôn để mắt, không cho phép có những vụ chè chén say sưa, hay tệ hơn nữa, sử dụng ma túy. Nếu anh trai cô vướng phải một loại rắc rối nào đó, thì nó đã không bắt đầu hay tiếp diễn dưới mái nhà này”.
Điều này đến từ gã đàn ông không biết Mack, hắn chỉ nghe nói về Mack thôi. Thông điệp thật to tát và rõ ràng. Thưa quý cô, xin đừng đến đây dòm ngó gì về vấn đề rắc rối của anh cô.
“Tôi không định gợi ý rằng bất kỳ vấn đề gì liên quan đến việc Mack cư ngụ ở đây khơi mào cho việc anh ấy biến mất. Nhưng ông có thể hiểu rằng điều hợp lý đối với tôi là phải bắt đầu tìm kiếm anh ấy từ nơi chốn cuối cùng anh ấy được nhìn thấy. Người anh mà tôi biết chẳng bao giờ tự nguyện gây ra cho cha mẹ tôi và tôi nỗi thống khổ và lo lắng mà chúng tôi đang trải qua trong cuộc sống mười năm nay”. Tôi cảm thấy những dòng lệ đang chực trào, long lanh đôi mắt khi tôi chỉnh lại lời nói của mình: “Tôi muốn nói là nỗi lo lắng mà mẹ tôi và tôi thường xuyên trải qua. Tôi nghĩ có lẽ ông đã biết rằng cha tôi là một nạn nhân của biến cố 11/9”.
“Anh trai cô dường như chẳng bao giờ giống loại thanh niên chỉ cần biến mất dạng mà chẳng có lý do gì thực sự quan trọng”. Gus Kramer đồng ý.
Giọng nói của ông ta rất chân thành, nhưng tôi chẳng bỏ sót ánh mắt ông liếc nhìn nhanh vợ mình hoặc thực tế là bà lo lắng đến nỗi cứ cắn lấy môi mình.
“Cô có bao giờ xem xét khả năng rằng anh cô có thể bị tình trạng xuất huyết não, hay bất kỳ điều kiện thể chất nào khác có thể khiến cậu ấy bị mắc chứng lãng quên hay một phần chứng lãng quên không?” Howard Altman hỏi.
“Tôi đang xem xét mọi điều”. Tôi bảo hắn ta. Tôi với lấy cái túi đeo vai và lấy ra một cuốn sổ với cây bút. “Ông bà Kramer, cháu biết điều đó đã xảy ra cách đây mười năm, nhưng có thể nào cho phép cháu được yêu cầu ông bà kể lại những gì ông bà còn nhớ về bất kỳ điều gì Mack đã làm hoặc đã nói thể có chứa đựng điều gì đó quan trọng không? Cháu muốn nói rằng đôi khi chúng ta nghĩ về một điều chúng ta không nghĩ tới vào thời điểm đó. Có thể như ông Altman vừa gợi ý, Mack đã bị chứng bệnh mất trí tấn công. Phải chăng anh ấy đang gặp rắc rối hay lo lắng gì đó, hay ngay cả anh ấy cảm thấy không khỏe về mặt thể chất chẳng hạn?”
Khi tôi đưa ra những câu hỏi này, tôi nghĩ về cách, sau khi cảnh sát đã từ bỏ việc cố gắng tìm cho ra Mack, cha tôi đã thuê người điều tra tư Lucas Reeves tiếp tục cuộc tìm kiếm ra sao. Trong vài ngày vừa qua tôi đã xem xét lại từng từ trong những bộ hồ sơ của ông. Mọi điều gia đình Kramer nói với ông đều có trong những phần ghi chú của tôi.
Tôi lắng nghe bà Kramer ngập ngừng, rồi sau đó nồng nhiệt kể về việc Mack là kiểu thanh niên trẻ trung ra sao, người luôn mở cửa giúp bà, người bỏ quần áo giặt ủi vào trong cái hòm mây của mình, người luôn vượt qua các trở ngại. “Tôi chẳng bao giờ thấy cậu ta có vẻ gặp rắc rối”. Bà nói. Lần cuối cùng bà trông thấy anh ấy là lúc dọn dẹp sạch sẽ căn hộ mà anh ở cùng với hai sinh viên năm cuối. “Cả hai cậu con trai kia đềụ đi ra ngoài. Cậu ấy đang làm việc với máy tính trong phòng ngủ của mình và bảo tôi rằng việc hút bụi chẳng làm phiền gì cậu cả. Cậu ta luôn như vậy. Dễ chịu. Tử tế. Lễ độ”.
“Lúc đó là mấy giờ ạ?” Tôi hỏi bà.
Bà mím môi lại. “Lúc đó là khoảng mười giờ sáng, tôi nghĩ là như vậy”.
“Điều đó đúng đấy”. Gus Kramer nhanh chóng khẳng định.
“Và bà chẳng bao giờ trông thấy lại anh ấy nữa à?”
“Tôi nhìn thấy cậu ấy rời khỏi tòa nhà vào khoảng ba giờ. Tôi đang trên đường về nhà từ chỗ nha sĩ. Tôi đang đút chìa khóa vào ổ khóa căn hộ của chúng tôi. Gus nghe thấy tôi và ra mở cửa. Cả hai chúng tôi đều trông thấy Mack đi xuống cầu thang. Cậu ấy vẫy tay khi đi ngang qua khu vực tiền sảnh”.
Tôi quan sát thấy bà liếc mắt sang ông chồng để chờ sự chấp thuận.
“Lúc đó Mack đang mặc gì thưa bà Kramer?”
“Những cái mà cậu ấy đã mặc buổi sáng. Một cái áo T-shirt, quần jean và đôi giày thể thao, và...”
“Lil, bà lại lẫn lộn rồi. Mack mặc một cái áo khoác, quần tây, sơ-mi thể thao cổ mở khi cậu ấy ra đi”. Gus Kramer nhanh chóng ngắt lời.
“Đó là điều tôi định nói”. Bà vội vã thốt lên. “Tôi cứ quen nhìn cậu ấy mặc T-shirt với quần jean bởi vì đó là khi tôi nói chuyện chút ít với cậu ấy sáng hôm đó”. Khuôn mặt bà bị chấn động. “Gus và tôi chẳng liên quan gì với việc cậu ấy biến mất”. Bà gào lên. “Tại sao cô lại tra tấn chúng tôi?”
Khi nhìn chằm chằm vào mặt bà, tôi nghĩ đến điều Lucas Reeves, chuyên viên điều tra tư đã viết trong hồ sơ của ông rằng gia đình Kramer lo lắng là họ sẽ bị mất việc bởi sự biến mất của Mack. Giờ đây sau gần mười năm, tôi không thể chấp nhận lý luận đó.
Họ lo lắng bởi họ đã che giấu điều gì đó. Giờ đây họ đang cố gắng giữ vững câu chuyện kể của họ. Cách đây mười năm bà Kramer đã bảo với Reeves rằng Mack vừa mới bước ra khỏi tòa nhà khi bà trông thấy anh ấy và lúc đó chồng bà đang ở trong khu vực tiền sảnh.
Vào thời điểm đó, tôi có thể lấy cả cuộc đời mình ra cá cược rằng chẳng một ai trong hai người đó trông thấy Mack rời khỏi tòa nhà. Hoặc anh ấy có thực sự rời khỏi tòa nhà chăng? Câu hỏi ấy chợt ùa vào tâm trí tôi, nhưng ngay lập tức bị bác bỏ.
“Điều đó đã xảy ra lâu biết bao”. Tôi nói. “Tuy nhiên, không biết có thể nào nhìn thấy căn hộ nơi anh trai cháu đã từng sống trong đó không?”
Tôi có thể thấy là yêu cầu của tôi khiến họ giật mình. Lần này cả hai ông bà Kramer đều nhìn về phía Howard Altman để được hướng dẫn.
“Dĩ nhiên căn hộ đã được cho thuê rồi”. Hắn nói. “Nhưng vì bây giờ là cuối học kỳ nên nhiều sinh viên đã bỏ đi. Tình hình ở 4D như thế nào hả Lil?”
“Hai người sống cùng trong căn phòng lớn hơn đã đi rồi. Walter Cannon ở căn phòng cũ của Mack, nhưng hôm nay cậu ta sẽ đi”.
“Thế thì bà có thể gọi điện thoại hỏi xem cô MacKenzie có thể ghé qua một chút không?” Altman gợi ý.
Một lúc sau chúng tôi cùng leo cầu thang lên lầu bốn. “Các sinh viên chẳng phiền lòng việc leo cầu thang”. Altman nói với tôi. “Tôi phải nói rằng tôi sung sướng khi không phải đi lên đi xuống chúng mỗi ngày”.
Walter Cannon, một thanh niên hai mươi hai tuôi, cao khoảng một mét tám, gạt phăng đi những lời xin lôi của tôi vì sự chen ngang. “Tôi rất vui là cô đã không có mặt ở đây cách đây một tiếng”. Cậu nói. “Tôi đã bày đồ đạc khắp nơi”. Cậu giải thích rằng mình đang thu xếp về nhà ở New Hampshire để nghỉ hè và sẽ bắt đầu học trường luật vào mùa thu.
Cậu ta đang ở cùng thời điểm như Mack khi anh ấy biến mất, tôi buồn phiền nghĩ vậy.
Căn hộ trùng lắp với ký ức mờ nhạt của tôi về nó. Một phòng giải lao nhỏ bây giờ chất đầy hành lý Cannon sẽ đem đi, một cái bếp đối diện trực tiếp với cánh cửa dẫn ra ngoài, bên phải lối đi có phòng khách với phòng ngủ tách biệt, một phòng tắm ở cuối dãy. Về phía trái của phòng giải lao, một phòng tắm thứ hai, và sau nó là phòng ngủ nơi Mack đã từng sống ở đó. Không thèm lắng nghe những lời bình luận của Altman ve cach toa nhà được bảo dưỡng tốt ra sao, tôi đi ngay vào nơi đã từng là phòng ngủ của Mack.
Những bức tường và trần nhà đều sơn màu trắng ngà. Một tấm vải cotton có họa tiết hoa hòe sáng màu được trải trên giường. Rèm cửa che phủ hai cánh cửa sổ. Một cái bàn trang điểm, một cái bàn giấy, một cái ghế bành làm thành bộ đồ gỗ hoàn chỉnh. Một tấm thảm màu xanh xám phủ kín sàn nhà.
“Căn hộ này, cũng giống như những căn hộ khác, sau khi dọn trống, chúng sẽ được quét một lớp sơn mới ngay lập tức”. Altman đang nói. “Thảm, tấm trải giường, và rèm che cửa sẽ được giặt giũ. Gus Kramer sẽ đảm bảo nhà bếp và nhà tắm không có tì vết. Chúng tôi rất tự hào về các phòng ốc của mình”.
Mack đã sống ở đây hai năm, tôi nghĩ. Tôi hình dung anh ấy cảm nhận về nó như tôi cảm thấy về căn hộ của mình. Đó là nơi chốn của anh. Anh có thể thức dậy sớm hay muộn, đọc sách hay không, trả lời điện thoại hay không. Cánh cửa tủ đang mở, và dĩ nhiên lúc này nó trống rỗng.
Tôi nghĩ đến lời tuyên bố của gia đình Kramer rằng anh mặc áo khoác với sơ-mi cổ mở và quần tây khi ra đi vào trưa hôm đó.
Thời tiết hôm đó ra sao nhỉ? Tôi tự hỏi. Có phải đó là một trong những buổi trưa tháng năm lạnh lẽo như thứ Bảy vừa rồi? Hay nếu thời tiết rất nóng, và Mack thực sự đã rời nhà lúc ba giờ thì việc mặc áo khoác có điều gì đó quan trọng không? Một cuộc hẹn à? Một chuyến lái xe đến nhà người bạn gái ở Connecticut, hay ở Long Island?
Thật khôi hài, nhưng trong căn phòng đó mười năm sau, tôi lại cảm nhận được sự hiện diện của anh ấy. Anh ấy luôn rất thong thả. Cha rất quyết liệt, luôn nhạy cảm, và với sự chính xác, ông đánh giá và xét đoán tình hình nhanh như chớp. Tôi biết mình cũng giống như thế. Mack có phần giống mẹ hơn. Anh ấy luôn cho mọi người một cơ hội. Cũng giống như bà, nếu có bao giờ anh ấy ý thức được mình bị lợi dụng hoặc bị đối xử tồi tệ, anh ấy sẽ chẳng bao giờ đôì đầu, anh ấy sẽ chỉ đơn giản ra sức rút lui khỏi tình thế đó thôi. Và đó chính là điều tôi nghĩ mẹ đang làm bây giờ - bà xem lá thư ngắn Mack bỏ trong cái rổ đựng đồ quyên góp là một cái tát vào mặt.
Tôi đi ra cửa sổ, cố nhìn những gì anh đã nhìn thấy. Biết Mack từng yêu thích đứng tại cửa sổ của căn hộ ở Sutton Place ra sao, rồi nghiền ngẫm quang cảnh, sông East River với tàu bè và xà lan, những ngọn dèn trên cầu, giao thông trên không, đến và đi khỏi phi trường La Guardia, tôi chắc anh ấy thường đứng ngây ra ngó qua những cái cửa sổ này, nhìn ra đại lộ West End, những lối dành cho người đi bộ thường xuyên tràn ngập dòng người, dòng xe cộ nối đuôi nhau trên đường.
Giấc mơ mà tôi có về anh sau cuộc điện thoại trước bình minh vào Ngày của Mẹ lại tái hiện trong tâm trí tôi. Một lần nữa, tôi lại đang đi trên con đường tối tăm, tuyệt vọng tìm cho ra Mack.
Và một lần nữa, anh đang cảnh cáo tôi phải dừng lại.

Chương trước Chương sau