Hỏa ngục - Chương 080
Hỏa ngục
Chương 080
Ngày đăng 04-01-2016
Tổng cộng 105 hồi
Đánh giá 8.8/10 với 90101 lượt xem
boong trên con tàu The Mendacium, Langdon bám chặt lấy hàng lan can bằng gỗ tếch bóng loáng, gắng trụ vững trên đôi chân đang loạng choạng, và cố lấy lại nhịp thở. Không khí trên biển giờ lạnh hơn, và tiếng ồn của những chiếc máy bay thương mại tầm thấp cho anh biết họ đang đến gần sân bay ở Venice.
Có một vài chuyện tôi phải nói với anh về cô Brooks.
Thị Trưởng và tiến sĩ Sinskey, đứng cạnh anh trên lan can vẫn im lặng nhưng rất chu đáo, cố gắng dành cho anh một khoảng thời gian để lấy lại bình tĩnh. Những gì họ vừa nói với Langdon ở boong dưới khiến anh mất phương hướng và buồn đến mức Sinskey phải đưa anh ra ngoài để hít thở không khí thoáng đãng.
Không khí biển cả thật trong lành, nhưng đầu óc Langdon vẫn không thể nào thông suốt. Tất cả những gì anh có thể làm là nhìn mông lung xuống lằn nước do con tàu tạo ra, cố gắng tìm kiếm một chút logic cho những gì anh vừa được nghe.
Theo lời Thị Trưởng, Sienna Brooks và Bertrand Zobrist là tình nhân đã lâu. Họ cùng nhau tham gia rất tích cực vào phong trào Siêu nhân học ngầm dưới một số hình thức. Tên đầy đủ của cô là Felicity Sienna Brooks, nhưng cô cũng có mật danh FS-2080 liên quan đến tên viết tắt và năm có ngày sinh nhật tròn một trăm của mình.
Không chi tiết nào có ý nghĩa gì cả!
“Tôi biết Sienna Brooks thông qua một nguồn khác”, Thị Trưởng nói với Langdon, “và tôi tin cô ta. Cho nên, khi cô ta đến chỗ tôi năm ngoái và đề nghị tôi gặp một khách hàng tiềm năng giàu có, tôi đồng ý ngay. Ứng viên triển vọng ấy hóa ra là Bertrand Zobrist. Ông ta thuê tôi cung cấp cho ông ta một nơi an toàn để có thể thực hiện ‘kiệt tác’ của mình mà không bị phát hiện. Tôi cứ đinh ninh ông ta đang phát triển một công nghệ mới mà không muốn bị đánh cắp bản quyền… hay có lẽ ông ta đang thực hiện một nghiên cứu di truyền mới nhất nào đó mâu thuẫn với những quy định đạo đức của WHO… tôi không hề đặt câu hỏi, nhưng tin tôi đi, tôi chưa bao giờ nghĩ ông ta đang tạo ra… một đại dịch”.
Langdon chỉ có thể ngơ ngác gật đầu, vô cùng đờ đẫn.
“Zobrist là một kẻ cuồng Dante”, Thị Trưởng nói tiếp, “và do đó ông ta chọn Florence làm nơi ẩn nấp. Vì thế tổ chức của chúng tôi cung cấp cho ông ta mọi thứ mà ông ta cần – một phòng thí nghiệm kín đáo có khu sinh hoạt, nhiều biệt danh khác nhau và đảm bảo các kênh thông tin liên lạc, cùng một tùy viên riêng giám định mọi việc, từ vấn đề an ninh của ông ta đến chuyện mua đồ ăn và nhu yếu phẩm. Zobrist không bao giờ sử dụng thẻ tín dụng của mình hay xuất hiện trước công chúng, cho nên không ai có thể tìm ra ông ta. Chúng tôi thậm chí còn cung cấp cho ông ta những hình thức ngụy trang, mật danh và thay đổi hồ sơ để đi lại mà không bị chú ý”. Ông ta ngừng lại. “Rõ ràng Zobrist đã làm đúng như vậy khi đặt cái túi Solublon vào chỗ đó.”
Sinskey thở hắt ra, cố gắng che giấu nỗi thất vọng. “WHO đã cố gắng kiểm soát ông ta kể từ năm ngoái, nhưng dường như ông ta đã biến mất khỏi trái đất.”
“Thậm chí xa lánh cả Sienna, Thị Trưởng nói.
“Sao cơ?”, Langdon ngước lên, cố nuốt cảm giác nghèn nghẹn trong họng. “Tôi tưởng ông nói họ là tình nhân cơ mà?”
“Đúng vậy, nhưng ông ta cũng đột ngột cắt đứt liên hệ với cô ta khi ở ẩn. Cho dù Sienna chính là người đã tiến cử ông ta với chúng tôi nhưng thỏa thuận của tôi chỉ là riêng với Zobrist, và một phần thỏa thuận của chúng tôi là khi ông ta biến mất, ông ta sẽ biến mất trước toàn thế giới, kể cả Sienna. Rõ ràng sau khi lánh đi, ông ta có gửi cho cô ta một lá thư từ biệt nói rằng ông ta rất ốm, sẽ chết trong vòng một năm nữa, và không muốn cô ta nhìn thấy mình suy sụp.”
Zobrist đã bỏ rơi Sienna chăng?
“Sienna cố gắng liên hệ với tôi để có thông tin”, Thị Trưởng nói, “nhưng tôi từ chối nhận cuộc gọi của cô ta. Tôi phải tôn trọng những mong muốn của khách hàng”.
“Hai tuần trước”, Sinskey tiếp tục. “Zobrist tới một ngân hàng ở Florence và giấu tên thuê một ngăn két an toàn. Sau khi hắn bỏ đi, chúng tôi nhận được tin cho hay phần mềm mới nhận dạng khuôn mặt của ngân hàng đó nhận ra kẻ giả trang chính là Bertrand Zobrist. Nhóm của tôi bay tới Florence và phải mất một tuần mới xác định được ngôi nhà hắn ẩn náu, nhưng nó trống trơn, dù chúng tôi tìm thấy bằng chứng bên trong cho thấy hắn đã tạo ra một mầm bệnh lây lan rất mạnh nào đó và giấu ở nơi khác”.
Sinskey ngừng lại. “Chúng tôi đã dốc hết sức tìm kiếm hắn. Sáng hôm sau, lúc trước bình minh, chúng tôi phát hiện hắn đang đi dọc sông Arno, và chúng tôi lập tức truy đuổi. Đó là lúc hắn leo lên tháp Badia và nhảy xuống tự sát”.
“Có lẽ ông ta đã lên kế hoạch làm việc đó rồi,” Thị Trưởng nói thêm, “Ông ta đinh ninh rằng mình sẽ không sống được lâu.”
“Hóa ra”, Sinskey nói, “Sienna cũng đang tìm kiếm hắn. Bằng cách nào đó, cô ta biết rằng chúng tôi đã tìm tới Florence, cà cô ta theo sát động tĩnh của chúng tôi, nghĩ rằng chúng tối có thể tìm ra hắn. Thật không may, cô ta có mặt đúng lúc Zobrist nhảy xuống”. Sinskey thở dài. “Tôi ngờ rằng cô ta bị tổn thương ghê gớm khi chứng kiến người tình và cũng là người thầy của mình tự sát.”
Langdon cảm thấy mệt mỏi, gần như không thể tiếp nhận được những gì mình đang nghe. Người duy nhất trong toàn bộ tấn kịch này mà anh thấy tin tưởng lại chính là Sienna, và những người kia đang nói với anh rằng cô không phải là con người cô nói sao? Cho dù họ nói gì, anh cũng không thể tin Sienna lại tha thứ cho ý nguyện tạo ra một đại dịch của Zobrist.
Hay là cô ưng thuận với hắn?
Anh có dám giết bớt một nửa dân số hôm nay, Sienna đã từng hỏi anh, để cứu lấy loài người chúng ta khỏi diệt vong không?
Langdon cảm thấy rùng mình.
“Khi Zobrist chết đi rồi”, Sinskey giải thích, “tôi dùng ảnh hưởng của mình buộc ngân hàng phải mở cái ngăn két an toàn của Zobrist, trong đó chỉ có đúng 1 lá thư gửi cho tôi… cùng với một thiết bị lạ lùng”.
“Cái máy chiếu”, Langdon đánh bạo.
“Chính xác. Trong bức thư hắn muốn tôi là người đầu tiên ghé thăm ổ dịch, nơi không ai có thể tìm ra nếu không lần theo bức Vực Địa ngục của hắn.”
Langdon nhớ lại bức vẽ của Botticelli đã bị biến cải được chiếu ra từ cái máy chiếu nhỏ xíu.
Thị Trưởng nói thêm, “Zobrist đã thỏa thuận rằng tôi sẽ gửi cho tiến sĩ Sinskey những thứ bên trong két an toàn, nhưng không được gửi trước buổi sáng ngày mai. Khi tiến sĩ Sinskey có được những thứ đó sớm hơn dự kiến, chúng tôi rất hoảng hốt và lập tức hành động ngay, cố gắng lấy lại nó theo đúng mong muốn từ khách hàng của mình”.
Sinskey nhìn Langdon. “Tôi không hy vọng nhiều rằng chúng tôi có thể hiểu được tấm bản đồ kịp thời gian, cho nên tôi mời anh giúp. Giờ anh có nhớ chi tiết nào không?”
Langdon lắc đầu.
“Chúng tôi âm thầm đưa anh bay tới Florence, nơi anh đã có lịch hẹn với một người mà anh nghĩ có thể giúp được mình.”
Ignazio Busino.
“Đêm qua anh đã gặp người đó”, Sinskey nói, “và sau đó anh biến mất. Chúng tôi nghĩ đã có chuyện gì đó xảy ra với anh.”
“Và trên thực tế”, Thị Trưởng nói, “đúng là có chuyện xảy ra với anh. Nhằm cố lấy lại cái máy chiếu, chúng tôi đã phái một đặc vụ tên là Vayentha bám theo anh từ sân bay. Cô ta mất dấu anh ở đâu đó gần Quảng trường Sidnoria”. Ông ta quắc mắt. “Để mất dấu anh là một sai lầm ghê gớm. Và Vayentha cho biết tất cả là do một con chim.”
“Sao cơ?”
“Một con chim bồ câu cất tiếng gù. Theo tường thuật của Vayentha, cô ta ở vị trí rất thuận lợi, theo dõi anh từ một hốc tường tối, đúng lúc có một nhóm du khách đi qua. Cô ta nói rằng có một con bồ câu đột ngột gù rất to từ một ô cửa sổ phía trên đầu cô ta, khiến cho đám du khách dừng lại và chặn mất đường ra của Vayentha. Đến lúc cô ta có thể lách được vào ngõ thì anh đã biến mất.” Ông ta lắc đầu bực bội. “Cô ta mất dấu anh vài giờ liền. Cuối cùng, cô ta lại lần được ra dấu của anh – và đến lúc này thì anh đã đi cùng một người đàn ông nữa.”
Ignazio, Langdon thầm nghĩ. Chắc chắn ông ấy và mình vừa thoát khỏi cung điện Vecchio cùng với chiếc mặt nạ.
“Cô ta bám được theo cả hai anh về hướng quảng trường Signoria, nhưng rõ ràng hai anh đã nhìn thấy cô ta và quyết định lánh đi, đi theo hai hướng khác nhau.”
Ra vậy, Langdon nghĩ, Ignazio chạy trốn cùng chiếc mặt nạ và giấu nó vào trong nhà rửa tội trước khi bị truy tìm.
“Sau đó Vayentha đã phạm một sai lầm khủng khiếp”, Thị Trưởng nói.
“Cô ta bắn vào đầu tôi phải không?”
“Không, cô ta để lộ quá sớm. Cô ta bắt anh để tra hỏi khi anh chưa biết gì cả. Chúng tôi cần biết liệu anh đã giải mã được tấm bản đồ hay đã nói với tiến sĩ Sinskey những gì bà ấy cần biết chưa. Anh không chịu nói một lời. Anh nói anh thà chết còn hơn.”
Tôi đang truy tìm một thứ bệnh dịch chết người! Có lẽ tôi nghĩ các vị là những kẻ đánh thuê đang tìm cách chiếm lấy một thứ vũ khí sinh học!
Động cơ của con tàu đột ngột chuyển sang chế độ lùi, khiến cho con tàu chậm lại khi nó áp sát cầu cảng của sân bay. Phía xa, Langdon có thể nhìn rõ phần thân khó nhận dạng của chiếc máy bay vận tải C-130 đang tiếp hiên liệu. Thân máy bay mang dòng chữ TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI.
Vừa lúc đó Brüder đến, vẻ mặt cau có. “Tôi vừa được biết nhóm phản ứng đủ khả năng duy nhất của chúng ta trong vòng năm tiếng chính là chúng tôi, có nghĩa là chúng ta phải tự xoay sở.”
Sinskey ngồi phịch xuống. “Thế còn việc hợp tác với cơ quan chức năng địa phương?”
Brüder đầy cảnh giác. “Chưa nên. Đó là đề xuất của tôi. Vì không có vị trí chính xác đến thời điểm này cho nên chúng ta chẳng thể làm được gì. Hơn nữa, tác vụ ngăn chặn vượt khỏi tầm chuyên môn của họ, và chúng ta dễ có nguy cơ gặp cảnh lợi bất cập hại.”
“Primum non nocere”, Sinskey gật đầu, khẽ nhắc lại quy tắc cơ bản về đạo đức ngành y bằng tiếng Latin: Trước tiên không được gây hại.
“Cuối cùng”, Brüder nói, “chúng tôi vẫn chưa có thông tin gì về Sienna Brooks”. Anh ta nhìn Thị Trưởng. “Ông có biết liệu có người quen nào của Sienna ở Venice có thể giúp đỡ cô ta không?”
“Tôi không lấy làm lạ về điều đó”, ông ta đáp, “Zobrist có đệ tử ở khắp mọi nơi, và theo tôi biết thì Sienna sẽ sử dụng tất cả nguồn lực sẵn có để thực hiện chỉ thị của mình.”
“Các anh không thể để cô ta thoát khỏi Venice”, Sinskey nói. “Chúng ta không biết hiện trạng của cái túi Solublon như thế nào. Nếu có ai đó phát hiện ra, lúc này chỉ một cái chạm nhẹ cũng làm cho lớp nhựa vỡ bung và giải phóng dịch bệnh vào nước.”
Tất cả chìm trong bầu im lặng nặng nề trước tình thế hiện tại.
“Tôi sợ rằng chúng ta còn có những tin xấu nữa”, Langdon nói. “Tòa bảo quản mạ vàng của tri thức thánh thiêng”. Anh ngừng lại. “Sienna biết nó ở đâu. Cô ấy biết chúng ta sẽ đi đâu.”
“Tại sao?”, Sinskey thảng thốt hỏi. “Anh nói rằng anh còn chưa kịp nói cho Sienna những gì anh đã đoán ra kia mà! Anh nói tất cả những gì anh cho cô ta biết là hai người đang ở nhầm quốc gia!”
“Đúng như vậy”, Langdon nói, “nhưng cô ấy biết chúng tôi đang tìm kiếm mộ của Enrico Dandolo. Chỉ cần tìm kiếm nhanh trên web là có thể giúp cô ấy biết rõ nơi đó. Và một khi cô ấy tìm ra mộ của Dandolo… Việc cái túi hòa tan trong nước kia sẽ không còn xa nữa. Bài thơ nói cứ theo tiếng nước chảy nhỏ giọt đi xuống cung điện chìm dưới nước.”
“Mẹ kiếp!”, Brüder buột miệng, và lao ra ngoài.
“Cô ta sẽ chẳng thể thắng chúng ta được”, Thị Trưởng nói. “Chúng ta ra tay trước.”
Sinskey thở dài não nề. ‘Tôi không chắc. Phương tiện di chuyển của chúng ta chậm lắm, và có vẻ Sienna Brooks cực kỳ tháo vát.”
Khi The Mendacium cập bến, Lamgdon nhấp nhổm nhìn chiếc C-130 kềnh càng trên đường băng. Trông nó như thể không tài nào bay nổi và lại chẳng có cái cửa sổ nào. Mình đã từng ở bên trong cái thứ này rồi sao? Langdon không tài nào nhớ nổi điều gì.
Không rõ do chuyển động của con tàu đang cập bến hay do tâm lý càng lúc càng e ngại về chiếc máy bay kín bưng, nhưng anh đột nhiên cảm thấy buồn nôn.
Anh quay sang Sinskey. “Tôi không dám chắc tôi có đủ khỏe để bay không.”
“Anh không sao đâu”, bà ấy nói. “Ngày hôm nay anh đã quá mệt mỏi rồi, và dĩ nhiên, trong cơ thể anh vẫn còn những độc tố.”
“Độc tố sao?”, Langdon loạng choạng lùi bước lại. “Bà đang nói sao cơ?”
Sinskey ngó đi chỗ khác, rõ ràng đã nói hớ nhiều hơn cần thiết.
“Giáo sư, tôi rất xin lỗi. Rất tiếc, chúng tôi vừa được biết rằng tình trạng sức khỏe của anh hơi phức tạp chứ không chỉ là một vết thương ở đầu.”
Langdon cảm thấy kinh hãi khi hình dung ra vết bầm tím trên ngực Ferris khi ông ta đổ gục trong thánh đường.
“Có chuyện gì không ổn với tôi à?”, Langdon hỏi.
Sinskey có vẻ do dự, như thể không dám chắc nên xử lý thế nào. “Chúng ta hãy lên máy bay trước đã.”