Luật giang hồ - Chương 01
Luật giang hồ
Chương 01
Ngày đăng 15-01-2016
Tổng cộng 38 hồi
Đánh giá 8.4/10 với 34500 lượt xem
Câu chuyện xảy ra vào năm 1993. Ðịa điểm là Washington DC. Tổng thống Hoa kỳ, Clinton thay thế George Bush. Ở London, Margaret Thatcher đã bị mất chức bởi đảng của chính bà. Ở Moscow, Gorbachev bị lật đổ bởi những thế lực mà ông không thể kìm chế.
Những đối thủ trong chiến tranh vùng Vịnh, người sống sót duy nhất là Saddam Hussein. Và Saddam đang mưu tính một cuộc trả thù khiến Hoa kỳ không còn có thể làm gì khác hơn là trả đũa.
Với sự thông đồng của một trùm mafia, một tay làm giấy tờ giả giỏi nhất thế giới và một trong những phụ tá đặc biệt của Tổng thống Clinton, Saddam sắp đặt kế hoạch: âm thầm đánh tráo bản gốc Tuyên ngôn Ðộc Lập của Hoa kỳ tại viện Bảo tàng lịch sử bằng một bản giả và dự định thiêu huỷ bản gốc tại Bagdad vào ngày Quốc khánh Mỹ, 4 tháng 7, với sự chứng kiến của các cơ quan truyền thông quốc tế. Mục đích là hạ nhục dân tộc Hoa kỳ. Trong lúc âm mưu được tiến hành, chính phủ Hoa kỳ không hề hay biết.
Một nhân vật hoàn toàn không thích hợp vô tình bị lôi cuốn vào tấn kịch này: Scott Bradley, một giáo sư trẻ tuổi của trường Ðại học Luật Yale. được CIA giao một nhiệm vụ đơn giản là khám phá lý do một nữ nhân viên Mossad xinh đẹp được cài vào Ban lợi ích của Iraq trong toà Ðại sứ Jordan ở Paris, và bất ngờ khởi sự lần ra manh mối của âm mưu phi thường này.
Một nhân viên Mossad và một giáo sư Yale có thể ngăn chặn được Saddam Hussein trước ngày Ðộc lập hay không? Câu hỏi này xin để JEFFREY ARCHER trả lời quý bạn đọc.
Một điều kỳ thú khác: cho đến nay, trong toàn bộ tác phẩm của JEFFREY ARCHER bao gồm 11 cuốn tiểu thuyết, 5 tập truyện ngắn, 3 vở kịch và 2 hồi ký về nhà tù, đã có 9 cuốn tiểu thuyết và 3 tập truyện ngắn được xuất bản tại Việt Nam, tất cả đều được nhiệt liệt đón tiếp, nhất là cuốn KANE AND ABEL (HAI SỐ PHẬN) đã được xuất bản, và cuốn cuối cùng SONS OF FORTUNE vừa mới được ấn hành trong năm 2003 và chắc chắn cũng sẽ được ra mắt ở nước ta trong nay mai.
JEFFREY ARCHER sinh năm 1940 và theo học tại trường trung học Wellington ở Sommerset, rồi trường đại học Brasenose ở Oxford. Ông đã bắt đầu sự nghiệp văn chương từ năm 1974 với tác phẩm NOT A PENNY MORE, NOT A PENNY LESS. Ông đã từng được đắc cử vào Hạ nghị viện Anh năm 1969, từ tháng 9 năm 1985 đến tháng 10 năm 1986 là Phó Chủ tịch đảng Bảo thủ. Ông có gia đình với hai người con.
NEW YORK.
Ngày 15-2-1993.
Antonio Cavalli chăm chú quan sát người A rập, người mà y nghĩ là quá trẻ để có thể là một viên Phó đại sứ.
- Một trăm triệu đô la, - Cavalli nói, phát âm từng từ một xách chậm rãi và thận trọng, khiến cho lời nói gần như có vẻ tôn kính.
Hamid Al Obaydi búng một hạt nhỏ(1) qua mút ngón tay cái được cắt sửa móng cẩn thận, gây ra một tiếng động làm cho Cavalli khó chịu.
- Một trăm triệu là hoàn toàn có thể chấp nhận. - viên Phó đại sứ đáp lại bằng một giọng tiếng Anh sắc gọn. Cavalli gật đầu. Ðiều duy nhất khiến y băn khoăn về dịch vụ này là Al Obaydi đã không hề mặc cả, nhất là về con số mà anh chàng người Mỹ đề xuất cao gấp đôi dự kiến y có thể đạt được. Cavalli đã có nhiều kinh nghiệm đau đđn là không nên tin tưởng bất cứ kẻ nào không mặc cả. Ðiều đó hiển nhiên có nghĩa là kẻ đó đã rắp tâm không trả tiền từ trước.
- Nếu con số đó đã được đồng ý, - y nói, - thì chỉ còn lại việc thảo luận tiền sẽ được trả như thế nào và lúc nào.
Viên Phó đại sứ lại búng một cái hạt khác trước khi gật đầu.
- Mười triệu đô la sẽ được trả bằng tiền mật ngay tức khắc, - Cavalli nói, - chín mươi triệu còn lại sẽ được gửi vào một tài khoản ngân hàng Thuỵ sĩ ngay sau khi hợp đồng đã được thực hiện.
- Nhưng tôi được cái gì với mười triệu đầu tiên của tôi, - viên Phó đại sứ vừa hỏi vừa nhìn chằm chằm vào mặt người đàn ông mà lai lịch khó thể che dấu chẳng khác gì chính ông ta.
- Không có gì cả, - Cavalli trả lời, mặc đầu y thừa nhận người A rập có quyền hỏi.
Xét cho cùng, nếu Cavalli không có cái vinh dự dược mặc cả, thì viên Phó đại sứ lại phải mất thêm tiền của chính phủ ông ta.
Al Obaydi lại búng một cái hạt, biết rằng mình đã có dịp lựa chọn - mới cách đây hai năm ông ta đã gặp gỡ Antonio Cavalli một lần. Cùng lúc đó, Tổng thống Chnton đã bước vào Nhà Trắng, trong lúc vị lãnh tụ của chính ông ta càng ngày càng nôn nóng phục hận. Nếu ông ta không chấp thuận điều kiện của Cavalli, Al Obaydi biết rằng khả năng tìm được một người nào khác có đủ sức thực hiện công việc trước ngày 4 tháng 7 chẳng khác gì con số không đang bò trên bàn ru lét chỉ còn một vòng quay.
Cavalli ngước mắt nhìn lên bức chân dung lớn ngự trên bức tường phía sau bàn của viên Phó đại sứ. Cuộc tiếp xúc đầu tiên của y với Al Obaydi đã diễn ra chỉ mấy ngày sau khi cuộc chiến tranh kết thúc. Đúng thời gian người Mỹ từ chối thương lượng với người A rập, vì ít có ai tin được rằng vị lãnh tụ của viên Phó đại sứ vẫn còn sống trước khi một cuộc gặp gỡ sơ bộ được dàn xếp.
Tuy nhiên, trong lúc nhiều tháng tiếp tục trôi qua, Cavalli bắt đầu nhận thấy khách hàng đầy tiềm năng của y có thể tồn tại lâu hơn Tổng thống Bush. Thế là một cuộc gặp gỡ thăm dò đã được dàn xếp.
Nơi gặp gỡ được chọn là văn phòng của viên Phó đại sứ ở New York, trên đường 79. Mặc dầu Cavalli vốn không thích một nơi quá đông đảo, nơi này vẫn có ưu điểm đầy đủ điều kiện đúng theo yêu cầu để sẵn sàng đầu tư một trăm triệu đô la cho một công việc táo bạo như thế.
- Ông muốn chúng tôi trả mười triệu đầu tiên như thế nào? - Al Obaydi hỏi, tựa hồ ông ta đang nói với một nhân viên địa ốc về việc đặt cọc tiền cho một ngôi nhà nhỏ trong khu vực thấp kém của Brooklyn Bridge.
- Toàn bộ số tiền này phải được giao bằng giấy bạc một trăm đô la đã qua sử dụng, không đánh dấu và gửi vào các ngân hàng của chúng tôi ở Newark, New Jersey, - Cavalli nói, mắt nheo lại rồi tiếp - Tôi không cần lưu ý ông rằng chúng tôi có cả một bộ máy kiểm tra.
- Ông khỏi phải lo ngại chúng tôi sẽ thất hứa trong vụ này, - Al Obaydi ngắt lời. - Số tiền đó, như người phương Tây các ông thường ví von, chỉ là một giọt nước giữa đại dương. Điều duy nhất tôi quan tâm là các ông có đủ khả năng thực hiện phần giao ước của mình hay không.
- Ông sẽ không đời nào hối thúc cuộc gặp gỡ ngày hôm nay nếu ông nghi ngờ chúng tôi không đảm đương nổi công việc này, - Cavalli vặn lại.- Nhưng tôi khó lòng tin tưởng ông có thể gom góp một số tiền mặt lớn đến thế trong một thời gian ngắn như thế.
- Tôi có thể cho ông biết ông Cavalli, - viên Phó đại sứ trả lời - rằng số tiền này đã được gửi trong một tủ sắt dưới tầng hầm của trụ sở Liên Hiệp Quốc. Xét cho cùng, không một ai có thể nghĩ sẽ tìm thấy một số tiền lớn như vậy trong căn hầm của một tổ chức đã gần như khánh tận.
Nụ cười vẫn ở trên mặt của Al Obaydi chứng tỏ rằng viên Phó đại sứ người A rập rất thích thú với lời nói hóm hỉnh của mình, cho dù đôi môi của Cavalli vẫn không hề cử động.
- Trưa mai, mười triệu sẽ được chuyển vào ngân hàng của ông, - Al Obaydi nói tiếp trong lúc ông ta đứng lên để báo hiệu, đối với ông ta, cuộc gặp gỡ đã kết thúc.
Viên Phó đại sứ đưa bàn tay ra và người khách miễn cường bắt.
Cavalli lại ngước mắt lên nhìn bức chán dung của Saddam Hussein một lần nữa, trước khi quay người và nhanh bước đi ra.
Khi Scott Bradley bước vào phòng mọi người cùng im lặng với vẻ trông đợi.
Anh đặt tập giáo trình trên bàn trước mặt anh, mắt lướt qua giảng đường. Căn phòng đông nghẹt những sinh viên trẻ háo hức đang cầm bút mực và bút chì đang chờ sẩn trên tập giấy màu vàng đúng qui định.
- Tên tôi là Scott Bradley, - vị giáo sư trẻ nhất của trường luật nói, - và đáy sẽ là bài đầu tiên trong số mười bốn bài giảng về luật Hiến pháp.
Bảy mươi bốn khuôn mặt cùng trố mắt nhìn người đàn ông cao lớn khá nhếch nhác hiển nhiên là không để ý thấy nút trên cùng của chiếc áo sơ mi quên cài và cũng không quyết định nên chải mái tóc về phía nào hồi sáng hôm nay.
- Tôi muốn bắt đầu bài giảng thứ nhất này với một lối trình bày của bản thân tôi, - anh thông báo, và trong lúc một số bút mực và bút chì vẫn còn bất dộng anh bắt đầu - Có nhiều lý do để thực thi pháp luật trong đất nước này, nhưng chỉ có một lý do thích hợp với các anh và chắc chắn chỉ có một lý do khiến tôi quan tâm. Nó ứng dụng với mọi khía cạnh của pháp luật mà có lẽ các anh đều thích theo đuổi và nó đã không bao giờ được diễn đạt chính xác hơn bản văn ghi chép trong Tuyên ngôn Mười ba bang của Hoa kỳ.
"Chúng ta giữ vững các chân lý đó để tự tin rằng tất cả mọi người đều bình đắng, đều được tạo hoá ban cho một số quyền lợi bất khả nhượng, trong đó có quyền sống, tự do, và tìm kiếm hạnh phúc". Chính câu đó là điều khiến cho Hoa kỳ khác với bất kỳ quốc gia nào khác trên địa cầu".
Vị giáo sư trẻ vẫn chưa nhìn vào tập giáo trình trong lúc anh ta vừa nói tiếp vừa đi lên đi xuống làm giật mạnh các ve áo của chiếc jacket bằng vải tuột đã sờn nhiều chỗ:
- Về một số phương diện, đất nước chúng ta đã tiến bộ một cách mạnh mẽ kể từ năm 1776, trong lúc về một số phương diện khác chúng ta đã thụt lùi rất xa. Mỗi một người trong các anh tại giảng đường này sẽ là thành viên của thế hệ kế tiếp bao gồm những người làm ra pháp luật hoặc vi phạm pháp luật…
Anh ngừng lại một lát, thăm dò bầu không khí đang mỗi lúc một thêm im lặng rồi tiếp ngay:
… và các anh đã được ban cho món quà lớn hơn hết thảy giúp các anh có thể lựa chọn, đó là một trí tuệ xuất sắc. Khi các bạn đồng nghiệp của tôi và chính tôi đã hoàn tất việc giảng dạy cho các anh, nếu muốn các anh có thể bước vào đời sống thực sự và không cần biết tới bản Tuyên ngôn Độc lập tựa hồ nó có giá trị không hơn một văn bản đã được viết ra quá lâu nên đã lạc hậu và không còn thích hợp với thời kỳ hiện đại này nữa.
Anh lại dừng rồi nói tiếp:
- Hoặc là, các anh có thể lựa chọn con đường làm lợi cho xã hội bằng cách tăng cường pháp luật. Đó chính là con đường mà các luật sư tài giỏi đi theo. Còn các luật sư đồi bại, và tôi không có ý nói họ là những kẻ ngu xuẩn đâu nhé, thì lại bắt đầu uốn cong pháp luật, việc này theo tôi chỉ cách việc vi phạm pháp luật có một bước mà thôi. Đối với những người như các anh trong lớp học này thích đi theo một con đường như thế tôi phải thừa nhận rằng tôi không có gì để giàng dạy cho các anh đâu, bởi vì các anh không thể học hỏi gì được ở tôi. Các anh vẫn còn có quyền tham dự các buổi giảng bài của tôi, và "tham dự" là tất cả những gì các anh sẽ làm.
Căn phòng im lặng đến nỗi Scott phải ngước lên để kiểm tra tất cả sinh viên đã lẻn ra ngoài hay không. Rồi anh lại tiếp tục vừa nhìn vào các bộ mặt đang tỏ ra hết sức chú ý:
- Đó không phải là lời nói của tôi, mà của Dan Thomas W. Swan, người đã giảng dạy tại giảng đường này trong suốt hai mươi bảy năm của thế kỷ này. Tôi thấy cần phải nhắc lại triết lý về cuộc sống của ông ấy mỗi lần tôi nói chuyện với một lớp học mới khai giảng của trường Đại học luật Yale.
Đến đây vị giáo sư mới bắt đầu mở tập giáo trình trước mặt và bắt đầu:
- Luận lý học là khoa học và nghệ thuật suy luận một cách chính xác. Không gì khác hơn là lẽ thường có người nói như thế. Và không gì khác thường như thế, Voltaire nhắc nhở chúng ta. Nhưng những kẻ kêu gào lẽ thường cũng chính là những người làm biếng rèn luyện trí tuệ. Oliver Wendell Homes đã có lần viết: "Cuộc sống của pháp luật không phải là lý luận, mà là kinh nghiệm".
Những cây bút bắt đầu viết lia lịa trên những trang giấy vàng, và cứ tiếp tục như vậy suốt năm mươi phút sau Khi Scott Bradley kết thúc bài giảng, anh gấp tập giáo trình lại, cầm lên tay và bước nhanh ra khỏi phòng. Anh không cần cho phép mình tự ở lại lâu hơn để nhận những tràng vỗ tay liên tục theo sau bài giảng của anh trong mười năm qua.
Hannah Kopec vẫn được xem như một người ngoài và cũng là một người đơn độc, mặc dầu được giới có quyền lực xem là kẻ đơn độc vẫn ưu thế hơn.
Hannah đã được nghe nói rằng cơ hội để cho nàng được tỏ ra có khả năng thật mỏng manh nhưng giờ đây nàng đã vượt qua phần khó khăn nhất là huấn luyện thể lực mười hai tháng, và mặc dầu nàng chưa từng giết chết một ai - sáu trong số tám ứng viên cuối cùng đã từng - giới quyền lực giờ đây tin chắc nàng có khả năng làm việc đó. Hannah biết mình có thể.
Trong lúc chiếc phi cơ cất cánh khỏi phi trường Ben Gorion ở Tel Aviv để bay đi Heathrow, một lần nữa Hannah lại suy nghĩ cái gì đã khiến cho một cỏ gái hai mươi lăm tuổi đang ở đỉnh cao của nghề người mẫu lại muốn nộp đơn vào học viện tình báo và đặc vụ - được biết nhiều hơn với cái tên Mossad - trong khi nàng có khả năng lấy được chồng giàu ở hơn chục thủ đô trên khắp thế giới.
Ba mươi chín hoả tiễn Scud đã rơi xuống Tel Aviv và Haifa trong cuộc chiến tranh vùng vịnh. Mười ba người đã chết. Mặc dầu có nhiều cảnh tang tóc và căm phẫn, chính phủ Do thái đã không đòi hỏi trả thù nhờ một cuộc thương lượng gay go của James Baker, ông này đã bảo đảm với họ rằng các lực lượng liên minh sẽ chấm dứt mọi việc. Ngoại trưởng Mỹ đã thất bại trong việc thực hiện lời hứa của ông. Thế nhưng, như Hannah thường suy nghĩ Baker đã không mất trọn gia đình trong một đêm.
Hôm nàng ra khỏi bệnh viện, Hannah đã lập tức xin gia nhập Mossad. Họ đã xua đuổi lời yêu cầu của nàng, đoán nàng sẽ lành vết thương sau một thời gian. Hannah đã đến trụ sở của Mossad mỗi ngày trong suốt hai tuần lễ kế tiếp, do vậy chính họ cũng phải thừa nhận rằng vết thương vẫn không hàn gắn lại được và quan trọng hơn, vẫn còn mưng mủ.
Trong tuần lễ thứ ba họ miễn cưỡng cho phép nàng tham dự một khoá huấn luyện, tin chắc rằng nàng sẽ không có hy vọng tốn tại trong vông vài ngày, và lúc bấy giờ sẽ trở lại với nghề người mẫu của nàng. Họ lại sai lầm một lần thứ hai. Phục thù đối với Hannah là một thứ ma tuý có tác dụng mạnh hơn cả tham vọng. Trong mười hai tháng sau đó nàng làm việc nhiều giờ ròng rã bắt đầu trước khi mặt trời mọc và kết thúc rất lầu sau khi mặt trời lặn.
Nàng ăn một món mà thậm chí một kẻ vô gia cư cũng không thèm và quên hẳn cái cảm giác nằm ngủ trên một tấm nệm. Họ thử mọi thứ để bắt nàng phải suy sụp và thất bại. Thoạt tiên các huấn luyện viên đối xử với nàng một cách nhẹ ngàng, ngẩn ngơ vì thân hình duyên dáng và vẻ mặt quyến rũ của nàng, cho đến lúc một người trong bọn họ bị gãy một chân. Anh ta không tin Hannah có thể cử động nhanh đến thế. Trong lớp học trí thông minh sắc sảo của nàng lại càng gây một nỗi kinh ngạc cho các huấn luyện viên, mặc dầu một lần nữa nàng đã cho họ một chút thời gian để nghỉ ngơi.
Nhưng giờ đây thì họ đã bắt đầu hiểu rõ con người thực sự của nàng.
Ngay từ lúc còn bé, Hannah vẫn luôn luôn xem việc nàng có thể nói được nhiều ngoại ngữ là đương nhiên. Nàng ra đời ở Leningrad năm 1968 và sau khi cha nàng chết mười bốn năm, mẹ nàng lập tức nạp đơn xin phép di cư sang Do thái. Ngọn gió mới đang thổi qua cái quốc gia vùng biển Baltic(2) đã giúp cho bà có thể được toại nguyện.
Gia đình của Hannah không phải ở lâu trong một khu tập thể: mẹ nàng, vẫn còn là một người phụ nữ quyến rũ và hoạt bát, nên nhận được khá nhiều lời cầu hôn, một trong số đó xuất phát từ một người đàn ông goá vợ giàu có, bà đã nhận lời.
Khi Hannah, em gái của nàng là Ruth và em trai là David dọn về ngôi nhà mới của nàng trong một quận thanh lịch của thành phố Haifa, toàn bộ thế giới của họ đã thay đổi. Người bố dượng say mê bà mẹ của Hannah và tặng cho gia đình đủ thứ quà, việc mà ông chưa từng làm trước kia.
Sau khi Hannah tốt nghiệp trung học nàng nộp đơn ở nhiều trường đại học Mỹ và Anh để học sinh ngữ. Mẹ nàng không đồng ý, và vẫn thường gợi ý rằng với một dáng người như nàng, cùng mái tóc đen dài và khuôn mặt tuyệt đẹp khiến cho đám đàn ông từ mười bảy đến bảy mươi tuổi cũng phải ngoảnh đầu nhìn theo, nàng nên theo nghề người mẫu. Hannah bật cười to và giải thích rằng nàng có nhiều việc tốt đẹp hơn để làm trong cuộc đời của nàng.
Mấy tuần lễ sau đó, Hannah đã có một cuộc phỏng vấn tại Vasser, rồi nàng đến gặp gia đình nàng đang nghỉ hè ở Paris. Nàng cũng dự tính thăm Rome và London, nhưng nàng đã nhận được quá nhiều lời mời ân cần của những người dân Paris mãi đến khi ba tuần lễ trôi qua rồi nàng mới nhận thấy đã không có một lần nào rời khỏi thủ đô của nước Pháp. Đúng vào ngày thứ năm cuối cùng của cuộc nghỉ hè thì Mode Rivoliagency đã đề nghị nàng một hợp đồng mà không một bằng cấp đại học nào có thể mang lại cho nàng. Nàng trả tấm vé về Tel Aviv cho mẹ và ở lại Paris để làm công việc đầu tiên. Trong thời gian nàng ổn định cuộc sống ở Paris, Ruth được gửi đến học năm cuối ở Zurich và David được nhận vào học ở trường đại học kinh tế London.
Tháng giêng năm 1991, tất cả ba chị em cùng trở về Do thái để dự lễ sinh nhật lần thứ năm mươi của mẹ. Giờ đây Ruth là một sinh viên của trường đại học Mỹ thuật Slade, David đang học để thi PHD, và Hannah xuất hiện một lần nữa trên trang bìa của tạp chí Elle.
Trong thời gian đó quân đội Mỹ đang tập trung trên biên giới Kuweit, và nhiều người Do thái bắt đầu lo lắng về một cuộc chiến tranh, ngôi nhà của họ ở trên phía Bắc của thành phố và do đó sẽ không bị ảnh hưởng đối với bất kỳ một cuộc tấn công nào.
Một tuần lễ sau, vào đêm sinh nhật thứ năm mươi của mẹ, tất cả mọi người đều ăn uống khá nhiều, rồi ngủ say. Cuối cùng khi Hannah tỉnh dậy, nàng nhận thấy mình lại bị buộc chặt trên một cái giường của bệnh viện. Nhiều ngày sau người ta mới nói cho nàng biết rằng mẹ nàng cùng cậu em trai và cô em gái đã chết ngay tại chỗ vì một hoả tiễn Scud đi lạc, và chỉ có ông bố dượng của nàng thoát chết.
Suốt mấy tuần Hannah nằm trên giường bệnh viện nghiền ngẫm cách trả thù. Cuối cùng khi nàng được xuất viện ông bố dượng của nàng bảo ông hy vọng rằng nàng sẽ quay lại với nghề người mẫu, tuy nhiên ông sẽ giúp đỡ nàng trong bất cứ việc gì nàng muốn làm.
Hannah cho ông biết nàng sẽ gia nhập Mossad.
Thật trớ trêu vì giờ đây nàng ở trên chiếc phi cơ đi London mà đáng lẽ ra cậu em trai của nàng phải đáp để hoàn tất việc học ở LSE(3). Nàng là một trong số tám nhân viên thực tập được phái đến thủ đô nước Anh để tham dự một lớp học cao cấp tiếng A rập. Giờ đây nàng có thể suy nghĩ bằng tiếng A rập, cho dù nàng không luôn luôn suy nghĩ như một người A rập.
Khi chiếc Boeing 757 đã xuyên qua những đám mây, Hannah chăm chú nhìn xuống con sông Thames lượn quanh xuyên qua khung cửa sổ nhỏ. Trong thời gian nàng sống ở Paris nàng vẫn thường bay phía trên để đến làm việc ở Bond Street hoặc Chensea trong các buổi sáng, ở Ascot hoặc Wimbledon trong các buổi chiều, ở Covent Garden hoặc Babican trong các buổi tối. Nhưng trong lần này nàng không cảm thấy một chút thích thú nào khi trở lại một thành phố mà nàng đã biết quá rõ.
Giờ đây nàng chỉ quan tâm đến một phân khoa tầm thường của trường đại học London và một ngôi nhà có bậc thềm ở một nơi có tên là Chalk Farm.
Chú thích: (1) Worry bead: một loại hạt nhỏ dùng để mân mê trong tay có tác dụng làm dịu sự lo lắng hoặc nôn nóng, đặc biệt ở miền Cận Đông
(2) Tức các nước: Litva, Lithuania và Estonia (N.D)
(3) Tức London School of Economics: trường đại học kinh tế London.