Lưới điện tử thần - Chương 17

Lưới điện tử thần - Chương 17

Lưới điện tử thần
Chương 17

Ngày đăng
Tổng cộng 87 hồi
Đánh giá 9/10 với 83923 lượt xem

Andrea Jessen có vẻ hiểu được sự hớ hênh suýt xảy ra. “Tính trên toàn quốc, tôi ít tuổi thứ hai và là nữ duy nhất đứng đầu một công ty điện lực lớn. Thậm chí dù tôi có quyền quyết định cuối cùng về tuyển dụng, nhân viên nữ ở Algonquin vẫn chỉ chiếm mười phần trăm như ở hầu hết các công ty điện lực lớn trên khắp nước Mỹ. Đó là bản chất của ngành này.”
Sachs đang định hỏi tại sao Jessen lại bước chân vào ngành này thì nữ CEO đã đoán trước ý cô, và nói, “Tôi nối nghiệp cha mình.”
Nữ thám tử suýt thổ lộ rằng cô trở thành cảnh sát cũng hoàn toàn vì cha cô, một sĩ quan “di động,” hay sĩ quan tuần tra bộ, làm việc nhiều năm cho Sở Cảnh sát New York. Nhưng cô kìm lời lại.
Jessen có gương mặt xương xương, phủ lớp trang điểm hết sức mỏng. Những nếp nhăn đã xuất hiện, tuy nhiên mới hơi mờ mờ, rụt rè tỏa ra từ đuôi đôi mắt màu xanh lá cây và khóe môi dịu dàng. Những chỗ khác, làn da vẫn mịn màng. Đây chẳng phải một phụ nữ hay ở ngoài trời.
Tới lượt chị ta quan sát Sachs kỹ lưỡng, rồi hất đầu về phía chiếc bàn uống cà phê lớn, những chiếc ghế văn phòng xếp xung quanh. Nữ thám tử ngồi xuống trong lúc Jessen nhấc điện thoại.
“Xin thứ lỗi một chút.” Những ngón tay có móng được cắt tỉa nhưng không sơn bấm phím số kêu lách cách.
Chị ta gọi cho ba người khác nhau - tất cả đều về vụ tấn công. Một cuộc, nữ thám tử có thể kết luận là cho luật sư, một cho bộ phận quan hệ công chúng và một cho một công ty PR bên ngoàỉ. Chị ta dành hầu hết thời gian cho cuộc gọi thứ ba, xem chừng đang đảm bảo rằng nhân viên an ninh đã được bổ sung tại tất cả các trạm điện cũng như các cơ sở khác của công ty. Viết xuống những dòng ghi chú nhỏ li ti bằng cây bút mạ vàng, Jessen nói với cung cách rất vắn tắt, từ ngữ đanh gọn, tuyệt nhiên không có các câu đệm kiểu “ý tôi là” hay “anh biết đấy.” Trong lúc Jessen tuôn ra những chỉ thị, Sachs ngắm nghía văn phòng, để ý thấy trên chiếc bàn gỗ tếch lớn có bức ảnh Andi Jessen thời thiếu niên chụp cùng gia đình. Từ một loạt ảnh, cô suy ra rằng Jessen có người em trai kém mấy tuổi. Hai người trông giống nhau, tuy anh ta tóc nâu, còn chị ta tóc vàng. Trong các bức ảnh gần đây, anh ta đẹp trai, khỏe mạnh trong bộ quân phục. Các bức khác chụp anh ta đi đây đi đó, đôi khi với cánh tay quàng qua một cô gái đẹp, mỗi bức là một cô gái khác nhau.
Không có bức ảnh nào chụp Jessen cùng một đối tượng có quan hệ tình cảm.
Bốn bức tường xung quanh được phủ kín bằng các tủ sách, bản đồ và ảnh chụp những tài liệu in cổ hẳn có xuất xứ từ một cuộc trưng bày bảo tàng về lịch sử dòng điện. Tấm bản đồ ghi tiêu dề Lưới điện Đầu tiên thể hiện một phần của Hạ Manhattan, khu vực phố Pearl. Cô trông thấy một bút tích dễ đọc, Thomas A Edison, và cô cho rằng đó là chữ ký thật của nhà sáng chế.
Jessen gác máy, rồi vươn người về phía trước, chống khuỷu tay lên bàn, ánh mắt rưng rưng nhưng hàm và đôi môi mỏng toát lên sự mạnh mẽ. “Đã bảy tiếng đồng hồ sau… sự việc bất ngờ kia. Tôi cứ hy vọng các cô đang giam giữ kẻ nào đó. Tôi chắc các cô tóm được hắn rồi.” Chị ta lẩm bẩm. “Đáng lẽ chỉ cần điện thoại thôi. Không cần trực tiếp đến.”
“Không, tôi tới đây để hỏi chị về một số điều phát hiện được trong quá trình điều tra.”
Jessen lại tỏ ra thận trọng. “Tôi đã nói chuyện với ngài thị trưởng, thống đốc và người đứng đầu văn phòng FBI New York. Ồ, cả Bộ An ninh Nội địa nữa. Tôi cứ nghĩ sẽ gặp một trong số họ, chứ không phải một sĩ quan cảnh sát.”
Đây không phải một lời coi thường, không phải một lời coi thường cố ý, và Sachs không cảm thấy bị xúc phạm. “Sở Cảnh sát New York đang xử lý hiện trường vụ án. Các câu hỏi của tôi liên quan tới vấn đề đó.”
“Ra thế.” Nét mặt Jessen hơi dịu đi. “Là phụ nữ với nhau, thú thật tôi đã có chút tự vệ. Tôi tưởng rằng mấy vị tai to mặt lớn kia không xem trọng mình.” Một nụ cười bí ẩn thoáng qua. “Chuyện vốn vẫn xảy ra mà. Thường xuyên hơn là cô có thể hình dung.”
“Tôi hiểu chuyện này.”
“Tôi nghĩ là cô hiểu. Một thám tử, hả?”
“Phải.” Rồi Sachs, cảm thấy sự cấp bách của vụ án, liền đề nghị, “Chúng ta đi vào vấn đề nhé?”
“Tất nhiên!”
Chuông điện thoại tiếp tục kêu, nhưng theo chỉ thị mà Jessen đưa ra cho người trợ lý riêng vừa quay lại sảnh văn phòng, nó reng reng mỗi một hồi rồi im lặng, vì người trợ lý đã thay sếp nhấc máy trả lời đầu dây đằng kia.
“Trước hết, là vấn đề có tính sơ bộ. Công ty đã đổi mật khẩu truy cập vào phần mềm điều khiển lưới điện chưa?”
Một cái chau mày. “Tất nhiên. Đó là việc đầu tiên chúng tôi làm. Ngài thị trưởng hay Bộ An ninh Nội địa không nói với bên cô à?”
Không, họ không nói, Sachs ngẫm nghĩ.
Jessen tiếp tục, “Và chúng tôi đã thiết lập thêm một hệ thống tường lửa. Những hacker đó sẽ không thể xâm nhập được nữa.”
“Có lẽ không phải là hacker.”
Jessen nghiêng nghiêng dầu. “Nhưng sáng nay, Tucker McDaniel đã nói rằng có lẽ là khủng bố mà. Viên mật vụ FBI ấy?”
“Chúng tôi có thông tin mới hơn.”
“Làm thế nào mà vụ việc xảy ra theo cách khác được? Một kẻ từ bên ngoài đã đổi đường truyền tải và cài đặt lại các aptomat tại MH-10, trạm điện ở phố Năm mươi bảy.”
“Nhưng chúng tôi khá chắc chắn rằng hắn lấy được mật khẩu từ nội bộ.”
“Điều đó là không thể nào. Vụ việc hẳn phải do những kẻ khủng bố tiến hành.”
“Đấy dứt khoát là một khả năng và là điều tôi muốn hỏi chị. Nhưng thậm chí nếu là thế đi nữa, bọn chúng cũng đang sử dụng người nội bộ. Một sĩ quan ở bộ phận Tội phạm Mạng của chúng tôi đã trao đổi với nhân viên IT của chị. Anh ta nói rằng không có bằng chứng nào về việc hệ thống bị hack một cách độc lập.”
Jessen ngồi nín thinh, xem xét bàn làm việc của mình. Xem chừng chị ta không vui vẻ gì - vì thông tin về kẻ tay trong? Hay vì người của công ty đã trao đổi với cảnh sát mà chị ta không biết? Chị ta ghi một lưu ý và Sachs băn khoăn tự hỏi phải chăng đó là lưu ý về việc sẽ khiển trách nhân viên an ninh mạng kia.
Sachs tiếp tục, “Đối tượng bị trông thấy đã mặc đồng phục của Algonquin. Hoặc ít nhất cũng là một bộ quần yếm màu xanh lam rất giống đồng phục nhân viên của chị mặc.”
“Đối tượng à?”
“Một người đàn ông bị nhận ra ở tiệm cà phê đối diện trạm điện, xung quanh thời điểm vụ tấn công diễn ra. Hắn bị trông thấy có đem theo laptop.”
“Cô có mô tả gì về người này không?”
“Da trắng, có lẽ độ tứ tuần. Không có thêm thông tin gì khác.”
“Ờ, về bộ đồng phục, người ta có thể mua, cũng có thể tự may.”
“Đúng. Nhưng chưa hết. Sợi cáp hắn sử dụng tạo hồ quang điện thì sao? Nó do nhà máy Bennington sản xuất. Công ty chị vẫn thường xuyên mua loại này.”
“Phải, tôi biết. Nhưng hầu hết các công ty điện lực đều mua loại này mà.”
“Tuần trước, gần hai mươi ba mét cáp Bennington, cùng cỡ, đã bị ăn trộm tại một trong những nhà kho của chị ở khu Harlem, cùng với một tá bu lông có chốt hãm. Chúng được dùng để đấu…”
“Tôi biết chúng được dùng để làm gì.” Những nếp nhăn trên gương mặt Jessen hằn lên rõ rệt hơn.
“Dù kẻ đột nhập nhà kho là ai, hắn cũng đã sử dụng chìa khóa để mở cửa. Hắn cũng đã chui vào đường hầm đặt ống kỹ thuật nằm ngầm bên dưới trạm điện qua cống dẫn hơi nước của Algonquin.”
Jessen vội nói, “Nghĩa là hắn không sử dụng chìa khóa điện tử để vào trạm điện?”
“Không.”
“Thế thì, cũng có bằng chứng cho thấy đấy không phải là nhân viên công ty.”
“Như tôi đã nói, nó là một khả năng thôi. Nhưng còn tình tiết khác nữa,” Sachs bổ sung thêm việc họ phát hiện ra dấu vết của đồ ăn Hy Lạp, gợi ý về một mối liên quan đến khu vực quanh đây.
Dường như bối rối trước mức độ họ đã tìm hiểu được, nữ CEO lặp lại với vẻ bực bội, “Tetramasalata à?”
“Có năm tiệm ăn Hy Lạp trong khoảng cách có thể đi bộ từ trụ sở công ty chị. Hai mươi tám tiệm trong khoảng cách mười phút đi taxi. Và vì dấu vết khá mới, có thể phán đoán rằng hắn hiện là nhân viên công ty hoặc ít nhất cũng lấy mật khẩu từ một người hiện là nhân viên công ty. Có thể bọn chúng đã gặp nhau tại tiệm ăn nào đó ở gần đây.”
“Ồ, thưa cô, xung quanh thành phố có biết bao tiệm ăn Hy Lạp.”
“Hãy cứ đặt giả thiết mật khẩu máy tính bị lộ từ bên trong công ty. Những người nào có mật khẩu?” Sachs hỏi. “Đó thực sự là vấn đề cần xem xét trước hết.”
“Rất hạn chế và được kiểm soát rất nghiêm ngặt” Jessen vội nói, như thể chị ta đang bị xét xử vì tội sơ suất trong hoạt động quản lý. Câu đáp nghe như kiểu đã được qua tập dượt.
“Những người nào?”
“Tôi. Và sáu nhân viên cấp cao. Vậy thôi. Nhưng, Thám tử, đó là những người đã làm việc cho công ty bao nhiêu năm qua. Họ không lẽ lại hành động như thế. Không thể tưởng tượng được.”
“Tôi hiểu rằng bên chị giữ mật khẩu và máy tính riêng rẽ.”
Một cái chớp mắt trước sự nắm bắt thông tin này. “Phải. Chúng được thiết lập ngẫu nhiên bởi nhân viên giám sát cấp cao của trung tâm điều khiển. Và được cất trong két sắt hồ sơ ở căn phòng bên cạnh.”
“Tôi muốn có các cái tên, và tìm hiểu xem đã có ai vào căn phòng ấy trái phép.”
Jessen rõ ràng chống cự lại ý tưởng thủ phạm là nhân viên công ty, nhưng chị ta vẫn nói, “Tôi sẽ gọi cho giám đốc an ninh của chúng tôi. Anh ta có các thông tin ấy.”
“Và tôi muốn có danh sách bất cứ công nhân nào trong vòng vài tháng qua được giao nhiệm vụ sửa chữa những đường ống hơi nước đặt trong cái cống nằm bên kia phố so với trạm điện. Đó là một con hẻm nằm cách trạm điện chừng chín mét về phía bắc.”
Nữ CEO nhấc điện thoại yêu cầu trợ lý riêng triệu tập hai nhân viên đến văn phòng của chị ta. Yêu cầu được đưa ra rất lịch sự. Mặc dù một số người ở vị trí này cho tới lúc bấy giờ đã phải quát tháo rồi, Jessen vẫn làm chủ bản thân và có thái độ chừng mực. Đối với Sachs, thái độ đó khiến chị ta càng có vẻ cứng rắn hơn. Chính những người cứ quát tháo ầm lên là những người yếu đuối và bấp bênh. Điều này vốn vẫn luôn xuất hiện trong ngành cảnh sát.
Chỉ chốc lát sau khi Jessen gác máy, một trong hai người chị ta yêu cầu đến tham gia đã có mặt. Văn phòng của ông ta có lẽ là ở ngay bên cạnh. Ông ta là một doanh nhân trung tuổi, vóc dáng chắc nịch, mặc sơ mi trắng và quần xám.
“Andi. Có gì mới không?”
“Có một số chuyện. Ông ngồi đi.” Rồi Jessen quay sang Sachs.
“Đây là Bob Cavanaugh, Phó Chủ tịch cấp cao điều hành công việc hàng ngày. Đây là Thám tử Sachs.”
Họ bắt tay nhau.
Ông ta hỏi Sachs, “Tình hình đã tiến triển gì chưa? Đã xác định được đối tượng chưa?”
Trước khi nữ thám tử kịp trả lời, Andi Jessen đã nói một cách nhẫn nhịn, “Họ nghĩ thủ phạm là người nội bộ đấy Bob.”
“Người nội bộ?”
“Hiện tại thì có vẻ là như thế.” Sachs đáp, và trình bày những gì họ tìm hiểu được cho tới lúc này. Cavanaugh xem chừng cũng hoang mang trước khả năng công ty mình đang chứa chấp một kẻ phản bội.
Jessen nói, “Ông có thể hỏi bộ phận Bảo dưỡng đường ống hơi nước không, xem những người nào đã được phân công kiểm tra đường ống đặt dưới cái cống gần trạm MH-10?”
“Tính đến bao lâu trở về trước?”
“Hai, ba tháng gì đó.” Sachs trả lời.
“Tôi không biết chúng ta có lấy được danh sách phân công không, nhưng tôi sẽ hỏi,” Cavanaugh gọi điện, yêu cầu cung cấp thông tin, rồi quay lại với hai người phụ nữ.
Sachs nói: “Bây giờ, chúng ta hãy trao đổi thêm một chút về mối liên hệ tới khủng bố.”
“Tôi tưởng cô đang kết tội một nhân viên công ty?”
“Chẳng có gì bất thường nếu những nhóm khủng bố tuyển dụng tay trong.”
“Chúng ta nên xem xét tới các nhân viên theo đạo Hồi chăng?”
“Tôi đang suy nghĩ về những kẻ phản đối ở bên ngoài kia kìa.” Sachs nói. “Khủng bố sinh thái thì sao?”
Cavanaugh nhún vai. “Algonquin từ trước tới nay vốn vẫn bị truyền thông phê phán là chưa đủ thân thiện với mỗi trường.” Ông ta phát biểu điều này một cách tế nhị, không nhìn về phía Jessen. Đây rõ ràng là vấn đề quen thuộc, chẳng hấp dẫn gì.
Jessen nói với Sachs, “Chúng tôi có một Chương trình về năng lượng tái tạo. Chúng tôi đang theo đuổi nó. Nhưng chúng tôi cũng rất thực tế trước vấn đề này và không lãng phí thời gian. Trên phương diện chính trị, phất lá cờ năng lượng tái tạo là đúng đắn. Tuy nhiên, hầu hết mọi người có biết gì về vấn đề ấy đâu.” Chị ta phẩy tay lãnh đạm.
Nghĩ đến tính khốc liệt của một số vụ khủng bố sinh thái xảy ra không lâu trước đây, Sachs đề nghị Jessen nói chi tiết hơn.
Như thể cô đã nhấn nút BẬT vậy.
“Tín nhiên liệu hydro, nhiên liệu sinh học, trang trại gió, trang trại năng lượng mặt trời, năng lượng địa nhiệt, phát điện từ khí metan, tận dụng sóng biển để phát điện… Cô biết chúng tạo ra được bao nhiêu không? Chưa được ba phần trăm tổng năng lượng cả nước tiêu thụ. Nửa lượng điện cung cấp cho Mỹ là từ than đá. Algonquin sử dụng khí tự nhiên. Khí tự nhiên cung cấp hai mươi phần trăm lượng điện. Hạt nhân chừng mười chín phần trăm. Hydro bảy phần trăm.”
“Chắc chắn năng lượng tái tạo sẽ phát triển, nhưng rất, rất chậm. Trong vòng một thế kỷ tới, chúng vẫn sẽ chỉ là một giọt nhỏ trong xô điện năng thôi, nếu tôi có thể tự trích dẫn mình.”
Nữ chủ tịch thậm chí trở nên giận dữ hơn. “Chi phí xây dựng ban đầu quá kinh khủng, máy móc thiết bị để làm ra được điện năng đắt một cách điên rồ và không đáng tin cậy, các nhà máy thông thường lại ở xa những trung tâm điều độ chính nên chi phí vận tải cũng là khoản chi phí khổng lồ nữa. Hãy lấy ví dụ các trang trại mặt trời. Làn sóng của tương lai, phải không? Cô có biết chúng là một trong những loại hình sản xuất điện tốn nước nhất? Và chúng được đặt ở đâu? Ở nơi có nhiều ánh nắng mặt trời nhất và do đó cũng khan hiếm nước nhất.”
“Nhưng cứ lớn tiếng phát biểu như vậy đi, truyền thông sẽ lại nhảy xổ vào. Cả Washington và Albany nữa. Cô nghe nói tới các vị thượng nghị sĩ sắp sửa đến thành phố nhân dịp Ngày Trái đất chứ?”
“Không.”
Jessen tiếp tục, “Họ thuộc Tiểu bang hỗn hợp các nguồn năng lượng, làm việc với Tổng thống về những vấn đề môi trường. Họ sẽ có mặt tại cuộc tập hợp đông đảo ở Công viên Trung tâm tối thứ Năm này. Và họ sẽ làm gì? Sẽ đánh chúng tôi. Ồ, họ sẽ không trực tiếp nhắc tới Algonquin, nhưng tôi cam đoan rằng một trong số họ sẽ chỉ về phía chúng tôi. Từ công viên, người ta có thể trông thấy các ống khói. Tôi chắc chắn đó là lý do ban tổ chức lựa chọn chỗ ấy để đặt sân khấu… Thôi được, đấy là quan điểm của tôi. Tuy nhiên, liệu như thế có đủ để biến Algonquin thành mục tiêu? Tôi hoàn toàn không nhận thấy điều này. Chắc chắn, một số phần tử cực đoan chính trị và tôn giáo đang tấn công cơ sở hạ tầng của Mỹ. Nhưng chẳng phải vì vấn đề sinh thái.”
Cavanaugh tán thành. “Khủng bố sinh thái ư? Tôi không nhớ đã từng xảy ra bất cứ một vụ gì. Và tôi đã làm việc ở đây ba mươi năm, tôi đã làm việc với cha của Andi khi ông ấy cai quản công ty. Hồi ấy chúng tôi đốt than đá. Chúng tôi luôn xác định tinh thần bị tổ chức Hòa bình Xanh hay các phần tử tự do phá hoại. Nhưng chẳng xảy ra chuyện gì hết.”
Jessen khẳng định, “Không có chuyện gì cả, chúng tôi nói chung chỉ phải tiếp đón đám người tẩy chay và phản đối thôi.”
Cavanaugh mỉm cười chua chát. “Và họ không nhận ra một sự mỉa mai là một nửa trong số họ bắt tàu điện ngầm đến đây từ Triển lãm Năng lượng Mới tại trung tâm tổ chức hội nghị, công trình hoạt động được chính nhờ dòng điện từ nhà máy Algonquin. Hay buổi tối hôm trước họ đã làm những tấm áp phích con con dưới ánh sáng đèn điện do chúng tôi cung cấp. Bỏ qua sự mỉa mai đi. Thế thì là đạo đức giả à?”
Sachs nói, “Tuy nhiên, cho tới lúc chúng tôi liên lạc được từ ai đó, hoặc tìm hiểu được thêm những tình tiết khác, tôi vẫn muốn xem xét khả năng khủng bố sinh thái. Các vị đã nghe gì về một nhóm có tên bắt đầu bằng những từ “Công lý cho” chưa?”
“Cho cái gì?” Cavanaugh hỏi.
“Chúng tôi không biết.”
“Ồ, tôi chưa bao giờ nghe,” Jessen nói. Cavanaugh cũng chưa. Nhưng ông ta bảo sẽ kiểm tra các văn phòng khu vực của Algonquin xem họ có nghe được gì không.
Ông ta nhận một cuộc điện thoại và nhướn mắt với Andi Jessen. Ông ta lắng nghe, kết thúc liên lạc, rồi bảo Sáchs, “Không có sửa chữa gì ở cống dẫn hơi nước từ hơn một năm nay. Những tuyến ấy đều đã dừng hoạt động,”
“Vâng, được rồi.” Thông tin này khiến Sachs chán nản.
Cavanaugh nói: “Nếu cô không cần tôi nữa, bây giờ tôi sẽ đi hỏi thăm các văn phòng khu vực xem thế nào.”
Sau khi ông ta rời khỏi đấy, một người Mỹ gốc Phi cao ráo hiện ra nơi khung cửa - người thứ hai được triệu tập - và Jessen liền bảo anh ta ngồi. Chị ta giới thiệu bọn họ với nhau. Sachs nhận ra Giám đốc An ninh Bemard Wahl là nhân viên da màu duy nhất cô trong thấy tại công ty cho tới lúc này mà không mặc bộ đồng phục quần yếm của công nhân. Người đàn ông thân hình vạm vỡ khoác bộ com lê tối màu và sơ mi trắng, hồ cứng. Cà vạt đỏ. Đầu húi sát, lấp lánh dưới những ngọn đèn gắn bin trần. Sachs liếc lên nhìn và thấy cứ cách một bóng lại có một bóng bị gỡ ra. Một hành động để tiết kiệm chăng? Hay, với quan điểm phản đối những chính sách môi trường, phải chăng Jessen đã quyết định rằng giảm tiêu thụ năng lượng sẽ mang lại lợi ích trên phương diện quan hệ công chúng?
Wahl bắt tay Sachs và lén liếc chỗ lồi ra trên hông cô, nơi cô đeo khẩu Glock. Một người được đào tạo trong ngành cảnh sát sẽ không buồn quan tâm tới khẩu súng của cô, nó chỉ là công cụ tác nghiệp như điện thoại di động hay bút bi. Những cảnh sát nghiệp dư mới bị mê hoặc bởi vũ khí.
Andi Jessen tóm tắt tình hình với anh ta và hỏi về những người có thể tiếp cận mật khẩu máy tính.
“Mật khẩu ấy à? Chỉ một vài người thôi. Tôi muốn nói, họ ở những vị trí rất cao. Chị hỏi tôi, nó quá hiển nhiên rồi. Chị chắc chắn chúng tôi không bị hack chứ? Giờ lũ oắt con thực sự ma lanh lắm.”
“Chắc chắn đến chín mươi chín phần trăm.” Sachs nói.
“Bernie, hãy bảo ai đó kiểm tra việc tiếp cận phòng đặt két sắt hồ sơ bên cạnh trung tâm điều khiển.”
Wahl rút điện thoại di động, gọi cho một trợ lý, ra lệnh thực hiện yêu cầu này. Anh ta kết thúc cuộc gọi, rồi nói thêm, “Tôi đã chờ nghe thông báo về một kẻ khủng bố. Nhưng chị lại đang nghĩ tới một người trong nội bộ à?”
“Theo chúng tôi, hoặc là một người trong nội bộ hoặc là với sự giúp đỡ của một người trong nội nộ. Tuy nhiên, chúng tôi quả có muốn hỏi về những mối đe dọa khủng bố sinh thái.”
“Không có gì trong bốn năm tôi làm việc ở đây. Chỉ có những người biểu tình.” Wahl hất đầu về phía cửa sổ.
“Anh đã bao giờ nghe nói tới một nhóm có tên là “Công lý cho” cái gì đó chưa? Dính dáng đến những vấn đề môi trường chăng?”
“Chưa bao giờ, thưa chị.” Wahl giữ thái độ điềm tĩnh, hoàn toàn không bộc lộ cảm xúc.
Sachs tiếp tục, “Liệu có vấn đề gì với những nhân viên bị đuổi việc gần đây, những nhân viên bất mãn với công ty không?”
“Với công ty ư?” Wahl hỏi. “Bọn chúng đã tấn công một xe buýt thành phố. Công ty đâu phải là mục tiêu?”
Jessen nói, “Cổ phiếu của chúng ta bị rớt giá tám phần trăm đấy, Bemie.”
“Ồ, phải. Tôi đã không nghĩ tới khía cạnh này. Có một vài trường hợp. Tôi sẽ lấy danh sách.”
Sachs tiếp tục, “Tôi cũng muốn biết bất cứ thông tin gì anh nắm được về những nhân viên gặp phải những vấn đề về tâm thần, về việc kiểm soát các cơn giận, hoặc những nhân viên có biểu hiện bất ổn.”
Wahl nói, “Bộ phận an ninh thường không lên danh sách những trường hợp ấy, trừ phi có biểu hiện trầm trọng. Có nguy cơ tiến hành bạo lực đối với bản thân hoặc người khác. Ngay lập tức thì tôi không thể nghĩ ra ai. Nhưng tôi sẽ hỏi bộ phận nhân sự và y tế.
“Một số vấn đề thường được giữ bí mật, nhưng tôi sẽ cung cấp các cái tên cho chị. Chị có thể từ đó mà xem xét.”
“Cảm ơn. Hiện tại, chúng tôi nghĩ hắn có lẽ đã ăn trộm cáp và linh kiện tại một nhà kho của Algonquin, nhà kho ở phố Một trăm mười tám.”
“Tôi nhớ vụ việc ấy.” Wahl nói, nhăn mặt lại. “Chúng tôi đã điều tra nhưng mất mát chỉ là vài trăm đô la. Và chẳng có manh mối gì.”
“Ai có chìa khóa?”
“Đó là loại đại trà. Tất cả các công nhân làm việc trực tiếp đều có. Ở khu vực này hả? Tám trăm người. Cộng thêm các nhân viên giám sát.”
“Gần đây có trường hợp nào bị sa thải, hay bị nghi ngờ ăn cắp ăn trộm gì không?”
Wahl liếc Jessen xem mình nên hay không nên trả lời các câu hỏi này. Anh ta tiếp nhận thông điệp ngấm ngầm là nên.
“Không. Không có trường hợp nào bộ phận tôi nắm được.” Điện thoại di động của anh ta reo chuông và anh ta nhìn vào màn hình. “Xin lỗi. Wahl đấy…” Sachs theo dõi nét mặt anh ta trong lúc anh ta lắng nghe tin tức gì đó có vẻ rắc rối. Anh ta nhìn từ người này sang người kia, rồi kết thúc cuộc gọi. Anh ta đằng hắng, không lên cũng chẳng xuống giọng. “Có thể, tôi không chắc, nhưng có thể chúng ta đã có vi phạm an ninh.”
“Cái gì?” Jessen ngắt lời, gương mặt đỏ bừng lên.
“Lịch sử đăng nhập vào số Chín cánh Tây.” Wahl nhìn Sachs. “Cánh có trung tâm điều khiển và phòng cất các tài liệu bí mật.”
“Thì sao?” Jessen và Sachs đồng thanh hỏi.
“Giữa phòng điều khiển và các tài liệu bí mật có một cửa an ninh. Bình thường nó phải đóng, nhưng lịch sử khóa thông minh cho thấy nó đã mở khoảng hai tiếng đồng hồ cách đây vài ngày. Do trục trặc hoặc bị can thiệp sao đó.”
“Hai tiếng đồng hồ? Không có giám sát?” Andi Jessen nổi cơn thịnh nộ.
“Vâng, thưa chị.” Wahl nói, rồi mím chặt môi. Anh ta xoa quả đầu óng ánh. “Nhưng xem ra không có bất cứ kẻ nào vào được từ bên ngoài. Không có vi phạm an ninh ở sảnh.”
Sachs hỏi, “Video an ninh?”
“Không, chúng tôi không lắp camera ở đó.”
“Có ai ngồi gần căn phòng đó không?”
“Không, bên ngoài căn phòng là một hành lang trống. Nó thậm chí không hề được đánh dấu, để đảm bảo an ninh.”
“Bao nhiêu người có thể đã tiếp cận căn phòng?”
“Luôn một vệt từ số Chín đến số Mười một cánh Tây.”
“Tức là?”
“Nhiều.” Wahl thừa nhận, ánh mắt nhìn xuống.
Thông tin đáng nản, tuy Sachs cũng không mong chờ gì hơn. “Anh có thể cho tôi danh sách tất cả những người đã ra vào căn phòng hôm ấy chứ?”
Wahl lại thực hiện một cuộc gọi nữa, trong lúc bản thân Jessen cũng nhấc điện thoại và nổi cơn thịnh nộ về sự vi phạm an ninh. Mấy phút sau, một cô gái mặc sơ mi nữ màu vàng nhóng nha nhóng nhánh, tóc chải phồng, rụt rè bước qua cửa. Cô ta liếc Andi Jessen một cái rồi đưa tập giấy cho Wahl. “Bemie, tôi đã tập hợp các danh sách anh cần. Cả danh sách từ bộ phận Nhân sự.”
Cô ta quay đi và sung sướng trốn thoát khỏi hang hùm cái.
Sachs nhìn gương mặt Wahl trong lúc anh ta xem xét bản danh sách. Rõ ràng nhiệm vụ lên danh sách không đòi hỏi nhiều thời gian nhưng kết quả lại chẳng hề dễ chịu. Bốn mươi sáu người, anh ta nói có thể đã tiếp cận căn phòng.
“Bốn mươi sáu người? Ôi, lạy Chúa,” Jessen ngồi sụp xuống, nhìn chằm chằm ra bên ngoài cửa sổ.
“Thôi được. Điều chúng ta cần tìm hiểu là những ai trong số họ.” Chị ta làm động tác chỉ bản danh sách, “có bằng chứng ngoại phạm, những ai có kỹ năng cài đặt lại máy tính và bố trí sợi dây điện ở điểm đỗ xe buýt.”
Jessen nhìn chằm chằm vào chiếc máy tính để bàn không chê vào đâu được của mình. “Tôi không phải một chuyên gia kỹ thuật. Tôi thừa hưởng năng khiếu kinh doanh từ cha mình trong ngành công nghiệp điện lực này, sản xuất điện, vận tải điện, môi giới.” Chị ta suy nghĩ một lát “Nhưng tôi biết người có thể giúp đỡ.”
Jessen lại gọi điện thoại, rồi ngẩng đầu nhìn. “Anh ta ắt sẽ có mặt tại đây sau mấy phút nữa. Văn phòng của anh ta ở bên kia khu Đốt.”
“Khu…?”
“Khu tua bin.” Jessen làm động tác chỉ ra ngoài cửa sổ, phần tòa nhà mà từ đó vươn lên các ống khói. “Nơi chúng tôi sản xuất hơi nước để chạy máy phát điện.”
Wahl đang xem xét bản danh sách ngắn hơn. “Đây là những nhân viên chúng tôi phải kỷ luật hoặc đuổi việc vì nhiều lý do khác nhau trong vòng sáu tháng qua, một số vì vấn đề tâm thần, một số vì kết quả xét nghiệm ma túy dương tính, và sử dụng rượu bia trong lúc làm việc.”
“Chỉ có tám người.” Jessen nói.
Có sự tự hào trong giọng nói của chị ta chăng?
Sachs so sánh hai danh sách. Không ai trong danh sách ngắn hơn những nhân viên có vấn dề - tiếp cận được mật khẩu máy tính. Cô cảm thấy thất vọng, cô đã hy vọng rằng nó sẽ đem lại kết quả.
Jessen cảm ơn Wahl.
“Thám tử, nếu có bất cứ việc gì khác tôi có thể làm, hãy cứ gọi tôi.”
Sachs cũng cảm ơn viên giám đốc an ninh, rồi anh ta rời khỏi đó. Cô bảo Jessen, “Tôi muốn mang về bản sao hồ sơ xin việc của họ. Tất cả mọi người trong danh sách. Hoặc nếu chị có hồ sơ nhân viên, lý lịch của họ. Bất cứ thứ gì.”
“Được, tôi có thể thu xếp việc này.” Jessen yêu cầu người trợ lý chụp bản danh sách và tập hợp thông tin nhân sự về từng người.
Một người đàn ông khác, hơi hổn hển, bước vào văn phòng của Jessen. Sachs ước đoán anh ta khoảng giữa tứ tuần. Anh ta hơi phục phịch, mái tóc ngỗ ngược màu nâu chen lẫn sợi bạc. “Dễ thương” có vẻ là từ phù hợp với anh ta. Sachs kết luận rằng anh ta mang nét gì đó trẻ con. Ánh mắt lấp lánh, đôi lông mày nhướn lên, và bản tính luôn chân luôn tay. Tay áo sơ mi kẻ sọc nhàu nhĩ xắn cao. Vụn thức ăn, có vẻ vậy, bám lấm tấm trên quần.
“Thám tử Sachs.” Jessen nói. “Còn đây là Charlie Sommer, giám đốc các dự án đặc biệt.”
Anh ta bắt tay nữ thám tử.
Nữ CEO nhìn đồng hồ đeo tay, đứng lên và mặc chiếc áo vét chị ta lựa chọn từ tủ quần áo lớn. Sachs băn khoăn không biết chị ta có hay thức trắng đêm không. Chị ta chải gầu hay bụi gì đó bám trên vai áo. “Tôi phải gặp công ty PR của chúng ta và sau đó tổ chức họp báo. Charles, anh có thể đưa Thám tử Sachs về văn phòng mình không? Cô ấy muốn hỏi anh một số việc. Hãy giúp đỡ cô ấy hết sức.”
“Vâng. Rất sẵn sàng.”
Jessen đang nhìn qua cửa sổ vương triều của mình - tòa nhà đồ sộ, kiến trúc thượng tầng của tháp, cáp và giàn giáo ngang dọc. Với dòng sông Đông đang lấp lánh chảy xiết phía sau, chị ta có vẻ giống như người thuyền trưởng trên con tàu khổng lồ. Người phụ nữ không ngừng miết ngón cái và ngón trỏ bàn tay phải vào nhau động tác biểu lộ sự căng thẳng mà Sachs ngay lập tức nhận ra, vì cô cũng thường xuyên làm như thế. “Thám tử Sachs, hắn sử dụng bằng nào dây điện cho vụ tấn công đó?”
Sachs trả lời Jessen.
Nữ CEO gật đầu và tiếp tục nhìn ra bên ngoài cửa sổ. “Vậy hắn còn đủ để thực hiện năm hay sáu vụ nữa. Nếu chúng ta không thể ngăn chặn được.”
Andi Jessen dường như không muốn nghe lời đáp. Thậm chí chị ta dường như đang chẳng nói với hai người khách trong phòng.

Chương trước Chương sau