Sherlock Holmes mất tích - Chương 01

Sherlock Holmes mất tích - Chương 01

Người Na Uy bí ẩn

Ngày đăng
Tổng cộng 24 hồi
Đánh giá 9.3/10 với 16690 lượt xem

Như vậy tôi đã du lịch hai năm ở Tây Tạng và tiêu khiển bằng cách viếng thăm Lhassa và trải qua vài ngày với vị Đạt Lai Lạt Ma. Có lẽ anh đã đọc về cuộc thám hiểm khác thường của một người Na Uy tên là Sigerson, nhưng tôi chắc rằng anh chưa bao giờ nghĩ mình đang đọc những tin tức về bạn anh.

Sherlock Holmes
Bí mật trong ngôi nhà trống

Cả cuộc đời này chẳng phải thật thảm hại và phù phiếm hay sao? Chúng ta cố vươn tới. Chúng ta giành giật. Nhưng rốt cuộc còn lại gì trong tay ta nào? Chỉ là một cái bóng. Hoặc tệ hơn cả một cái bóng, đó là sự khổ đau.

Sherlock Holmes
Người bán thuốc vẽ về hưu

Mandala (tiếng Tây Tạng: dkyil- khor) là một vòng tròn thiêng liêng bao quanh bởi những tia sáng hoặc là nơi thanh tẩy mọi ý tưởng phù du hoặc nhị nguyên. Nó được xem như một khối cầu tâm thức tinh khiết và rộng lớn vô cùng nơi các thánh thần an nhiên hiển lộ bản thân… Các mandala cần được hiểu như là những bức tranh nội tâm về toàn bộ thế giới trong tính toàn vẹn của nó; chúng là những biểu tượng mang tính sáng tạo chính yếu về sự tiến hóa và thoái hóa của vũ trụ, xuất hiện và trôi qua phù hợp với những quy luật như nhau.
Từ quan điểm này chỉ còn một bước ngắn dể nhận thức được mandala như một nguyên lý sáng tạo trong mối tương quan với thế giới bên ngoài, thế giới vĩ mô - và vì vậy mà nó trở thành trung tâm của mọi tồn tại.

Detlef Ingo Lauf
Nghệ thuật linh thiêng của người Tây Tạng

Từ thời này sang thời khác, Thượng đế đã khiến con người được sinh ra - ngươi cũng là một trong số đó - kẻ nuôi khao khát đi khỏi quê cha đất tổ, bất chấp cả tính mạng mình để khám phá những điều mới mẻ - ngày hôm nay là những gì xa lạ, ngày mai là ngọn núi còn ẩn mình và ngày sau nữa lại là những ai đó ngay bên cạnh vừa làm điều dại dột chống chính quyền. Những tâm hồn như vậy thật hiếm có; và trong số hiếm hoi ấy, có không quá mười người ưu tú nhất. Trong số mười người ấy, tôi phải kể đến Babu.

Rudyard Kipling
Kim

Khi nào mọi người chết hết, cuộc chơi vĩ đại mới hoàn tất. Không phải trước đó. Hãy lắng nghe tôi cho đến tận cùng.

Rudyard Kipling
Kim

Lời nói đầu
Rất nhiều bản thảo chưa xuất bản của bác sĩ John Watson - thường tìm thấy trong "một cái hộp du lịch bằng thiếc cũ kỹ, móp méo, nằm đâu đó trong tầng hầm của Ngân hàng Cox & Company tại Charing Cross - mới được đưa ra ánh sáng trong những năm gần đây dành cho một lượng độc giả kiên nhẫn chẳng mặn mà lắm trong việc đón nhận thêm nữa phát hiện mới về câu chuyện liên quan đến Sherlock Holmes, thái độ của họ là hoài nghi, nếu không muốn nói là hoàn toàn không tin. Vì vậy, xin bạn đọc hãy rộng lượng, đừng vội đưa ra một đánh giá tức thì mà hãy chờ tới khi đọc xong phần giải thích ngắn gọn này, rằng làm thế nào - chủ yếu nhờ hoàn cảnh xuất thân có phần đặc biệt - mà tôi được thừa hường một tập bản thảo kỳ lạ nhưng có thật về hai năm quan trọng nhất trong cuộc đời Sherlock Holmes chưa được ai biết đến.
Tôi sinh năm 1944 (năm Giáp Thân) ở thành phố Lhassa, thủ đô của Tây Tạng, trong một gia đình thương gia giàu có. Cha tôi là một người sắc sảo, từng du lịch nhiều nơi - từ Mông Cổ, Turkestan đến Nepal và Trung Quốc - vì việc kinh doanh, nên nhận thức rõ hơn đa số những người Tây Tạng khác về sự mong manh của đất nước hạnh phúc mà lạc hậu này. Hiểu rõ những lợi thế của một nền giáo dục tiên tiến, ông gửi tôi vào một trường dòng Tên tại miền đồi núi Darieeling, Ấn Độ, một vùng thuộc Anh.
Cuộc sống của tôi tại trường Saint Joseph lúc đầu khá đơn độc, nhưng nhờ biết tiếng Anh nên tôi sớm có nhiều bạn bè và điều tốt đẹp hơn cả là tôi có điều kiện khám phá thế giới sách vở. Như nhiều thế hệ nam sinh khác, tôi tìm đến các tác phẩm của George Alfred Henty, John Buchan, Rider-Haggard và William Earl Johns và ngốn ngấu đọc từng trang. Tuy vậy, không gì có thể sánh được cái cảm giác hồi hộp đến run người khi đọc Kipling(1) hay Conan Doyle đặc biệt là những cuộc phiêu lưu sau này của Sherlock Holmes. Là một gã con trai người Tây Tạng, nhiều tình tiết trong những câu chuyện ấy thoạt đầu đã gây cho tôi một số hoang mang. Có lúc tôi đã tưởng "lò ga" là một loại bếp lò đốt bằng dầu hỏa và rằng "luật sư Penang" là một luật sư ở Penang; nhưng tất cả những chuyện như vậy chỉ là những trở ngại vặt vãnh và chưa bao giờ thật sự xen vào những đánh giá cơ bản tôi dành cho những tác phẩm này.
Trong tất cả các câu chuyện về Sherlock Holmes, cuốn có sức mê hoặc tôi nhất là cuộc phiêu lưu trong Bí mật trong ngôi nhà trống. Trong câu chuyện xuất sắc này, Sherlock Holmes tiết lộ với bác sĩ Watson rằng trong suốt hai năm, khi cả thế giới đinh ninh rằng vị thám tử vĩ đại đã bỏ mạng tại thác Reichenbach thì thật ra ông lại đang du ngoạn đến quê hương tôi - đất nước Tây Tạng!
Holmes vốn là người kiệm lời và hai câu dưới đây là tất cả những gì chúng ta biết được cho tới thời điểm này về cuộc hành trình lịch sừ của ông:
"Như vậy tôi đã du lịch hai năm ở Tây Tạng và tiêu khiển bằng cách viếng thăm Lhassa và trải qua vài ngày với vị Đạt Lai Lạt Ma. Có lẽ anh đã dọc về cuộc thám hiểm khác thường của một người Na Uy tên là Sigerson, nhưng tôi chắc rằng anh chưa bao giờ nghĩ mình đang đọc những tin tức về bạn anh".
Khi quay về Lhassa trong kỳ nghỉ đông ba tháng, tôi thử tìm hiểu về nhà thám hiểm người Na Uy đã đến đất nước tôi năm mươi năm về trước. Một người ông bên họ ngoại của tôi nhớ đã từng gặp một người nước ngoài như vậy ở Shigatse, nhưng thật ra ông nhầm người này với Ven Hedin, nhà dịa lý và thám hiểm nổi tiếng người Thụy Điển. Dù sao thì người lớn cũng có nhiều vấn đề nghiêm túc cần cứu xét hơn là những thắc mắc của một cậu học sinh về một du khách châu Âu đến đây từ hồi nảo hồi nào.
Đúng thời điểm ấy, đất nước tôi bị Cộng quân chiếm đóng. Họ đã xâm lược Tây Tạng vào năm 1950 và sau khi đánh bại đội quân ít ỏi của người Tạng, họ tiến vào Lhassa. Ban đầu, người Trung Quốc không đàn áp công khai, mà chỉ từng bước thực thi những chương trình cực đoan và tàn bạo của họ nhằm mục đích thay đổi tận gốc xã hội truyền thống. Các bộ lạc thiện chiến như Khampa và Amdowa ở miền đông Tây Tạng tiến hành những cuộc nổi dậy, chẳng mấy chốc chúng đã lan rộng ra khắp nước. Quân chiếm đóng Trung Quốcc đã thực hiện những chiến dịch trả đũa tàn ác khiến hàng chục nghìn người dân bị tàn sát, và thêm nhiều nghìn người nữa bị bỏ tù hoặc buộc phải trốn khỏi quê hương.
Tháng Ba năm 1959, người dân Lhassa, lo sợ cho tính mạng vị lãnh tụ của họ - Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi - bèn nổi dậy chống lại người Trung Quốc. Một cuộc đối đầu dữ dội nổ ra, nhưng lực lượng Trung Quốc tinh nhuệ hơn đã đè bẹp người Tạng, gây thương vong nặng nề và phá hủy nhiều nhà cửa. Tôi đang học năm cuối tại trường ở Darjeeling, thì cuộc nổi loạn nổ ra ở Lhassa. Tin tức khiến tôi phát ốm vì lo lắng cho số phận cha mẹ và người thân.
Thông tin tử Lhassa vừa ít ỏi lại mơ hồ chẳng có gì khiến tôi có thể yên lòng. Nhưng sau một tháng trời ăn không ngon ngủ không yên, Đài Phát thanh Toàn Ấn đưa tin mừng rằng Đạt Lai Lạt Ma và những người ủng hộ ông, cùng với nhiều người tị nạn khác, đã thoát khỏi nước Tây Tạng bị chiến tranh tàn phá và an toàn đến được biên giới Ấn Độ. Hai ngày sau, tôi nhận được một lá thư đóng dấu bưu điện Gangtok. Đó là thư của cha tôi. Ông và các thành viên khác trong gia đình đều an toàn tại thủ đô của vương quốc nhỏ bé Sikkim, vùng Himalaya.
Ngay từ những ngày đầu loạn lạc cha tôi đã không vội tin vào sự đảm bảo và thái độ làm ra vẻ thiện chí của người Trung Quốc, ông lặng lẽ chuẩn bị cho việc cao chạy xa bay. Ông bí mật chuyển hầu hết tài sản đến Darjeeling và Sikkim, vì thế gia đình chúng tôi ở vào hoàn cảnh có thể nói là rất may mắn nếu so với hầu hết dân tị nạn Tây Tạng khác, những người gần như lâm vào cảnh trắng tay.
Sau khi tốt nghiệp, tôi quyết định toàn tâm phụng sự cho những người đồng bào bất hạnh nước mình. Tôi đến vùng nghỉ mát miền đồi núi cao ở Dharamsala, nơi Đạt Lai Lạt Ma(2) thành lập chính phủ lưu vong, và chẳng bao lâu nhận nhiệm vụ dạy dỗ con em những người tị nạn. Sếp của tôi là một học giả cao niên trước từng là người đứng đầu Văn khố Chính phủ Tây Tạng tại Lhassa, đồng thời là một nhà nghiên cứu lịch sử. Sở học của ông về Tây Tạng thật uyên thâm, và ông không thích gì hơn là được chia sẻ cái vốn quý đó ông có thể nói chuyện thâu đêm suốt sáng về Tây Tạng trong một quán trà nhỏ xiêu vẹo chỉ với một cử tọa trẻ tuổi người Tạng đầy say mê như tôi, và thấm đẫm trong chúng tôi kiến thức cùng sự ngạc nhiên kỳ thú về đất nước tươi dẹp của mình.
Một hôm, tôi thử hỏi xem liệu ông đã bao giờ nghe nói về một du khách người Na Uy tên Sigerson từng đặt chân đến Lhassa chưa.
Lúc đầu ông cũng nghĩ tôi đang hỏi về Sven Hedin - một nhầm lẫn hoàn toàn có thể hiểu được - bởi những văn bản địa lý của người Tây Tạng vừa không chính xác vừa đậm màu sắc hoang đường; khi miêu tả những đất nước xa xôi, chúng thường có xu hướng đánh đồng các quốc gia vùng Scandinavia và Baltic thành các nước chư hầu của đế chế Sa hoàng. Nhưng bằng cách giải thích rằng người Na Uy đó đã đến Tây Tạng vào năm 1892 chứ không phải năm 1903 như người Thụy Điển kia, tôi đã tìm được cách rung một hồi chuông gợi nhắc một nơi nào đó trong ký ức rối rắm của ông già.
Ông nhớ rằng mình đã từng đọc một dẫn chiếu trong kho lưu trữ của chính phủ về chuyến viếng thăm của một người châu Âu vào năm Nhâm Thìn (1892). Ông đã lưu tâm đến việc này trong khi đối chiếu tài liệu tại trung tâm lưu trữ tại Lhassa để chuẩn bị bản bố cáo lý lịch chính thức cho Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Ông để ý đến một bản ghi chép ngắn gọn về thị thực đi đường của hai người ngoại quốc. Ông chắc rằng một trong hai người đó là người châu Âu mặc dù ông không nhớ được tên. Người kia là người Ấn Độ. Ông nhớ chuyện đó rất rõ, vì mấy năm sau người Ấn Độ đó bị nghi ngờ làm gián điệp cho người Anh. Tên ông ta là "Hari Chanda".
Tôi thật sự chấn động trước tầm quan trọng của điều tiết lộ này, vì tôi đã nghe, hay đúng hơn là đã đọc, về Hurree Chunder Mookeriee (theo tên đầy đủ và cách phát âm được Anh hóa của nó) trong tiểu thuyết Kim của Ruyard Kipling. Ít người ở bên ngoài Ấn Độ nhận thức được rằng trong thực tế, Kipling đã xây dựng nhân vật điệp viên hư cấu người Bengal của mình - một người mập mạp, ba hoa, ưa lấy lòng người khác nhưng có tài xoay chuyển tình thế, tên là Hurree Babu - dựa trên một nguyên mẫu ngoài đời, một học giả vĩ đại người Bengal từng có thời làm diệp viên cho Anh, nhưng ngày nay được nhớ đến nhiều hơn bởi những đóng góp của ông trong lĩnh vực Tây Tạng học. Ông đã trải qua phần lớn thời thanh xuân của mình tại Darjeeling và ở phương diện nào, khá nổi tiếng trong cái thị trấn nhỏ nằm trên cao nguyên đó, cùng với những danh hiệu C.I.E., F.R.S.(3) và nhiều vinh dự lớn lao khác mà các nhân sĩ hàng đầu nước Anh thời đó dành cho ông. Babu chết vào năm 1928 tại nhà của mình ở biệt thự Lhassa.
Lần sau, khi trở lại thăm gia đình, lúc đó đã chuyển về Darjeeling sống, tôi đã làm một chuyến đi bộ từ đường Hill Cart đến biệt thự Lhassa. Bây giờ thì nó thuộc về một người trồng trà đã về hưu tên Siddarth Mukherjee chay "Sid" như ông khăng khăng buộc tôi gọi như vậy, ông là chắt gọi nhà học giả, điệp viên nổi tiếng của chúng ta là cụ. Sid kiên nhẫn lắng nghe câu chuyện lòng vòng và phức tạp mà tôi trình bày với ông, đại loại: Hurree Chunder Mookeriee đã xuất bản một cuốn sách về chuyến du lịch của ông đến Tây Tạng có tên: Hành trình đến Lhassa qua miền tây Tây Tạng, nhưng không hề nhắc đến bất cứ người châu Âu nào đi cùng. Chắc hẳn, ông đã làm vậy trước sự nài ép của Sherlock Holmes, người vào thời điểm đó đang cố giữ làm sao cho sự tồn tại của mình là một điều bí mật với toàn thế giới. Tôi hy vọng nếu đọc được những ghi chép, thư từ, nhật ký và những giấy tờ cá nhân khác của Hurree, thì biết đâu tôi lại có thể tìm được một đầu dây mối nhợ dẫn đến những tiết lộ về Sherlock Holmes, hay ít nhất là về nhà thám hiểm người Na Uy(4).
Sid run lên vì xúc động khi biết rằng cố nội của mình có thể quen biết nhà thám tử tài ba nhất thế giới, nên đã tỏ ra trên cả nhiệt tình trong việc giúp đỡ cho cuộc tìm kiếm của tôi. Hầu hết giấy tờ của Hurree đều được cất giữ trong mấy cái thùng thiếc lớn để trên gian áp mái của biệt thự Lhassa sau khi ông qua đời. Tôi mất cả tuần lễ lục lọi đống tài liệu cũ nát bụi bặm, nhưng ngoài cảm giác lạnh lẽo buồn bã, tôi chẳng tìm thấy gì có ích, tuyệt không một dòng nào nhắc đến người mà ta có thể phỏng đoán là Sherlock Holmes. Nỗi thất vọng của tôi không thể che giấu được.
Sid thật tử tế, ông cố làm tôi phấn chấn lên bằng lời hứa sẽ liên hệ ngay với tôi, nếu ông tìm được bất cứ thứ gì có thể đóng góp cho nghiên cứu của tôi.
Cứ như vậy nhiều năm trôi qua. Công việc chiếm tất cả thời gian và sức lực của tôi và tôi hầu như cũng đã quên bẵng việc nghiên cứu sớm thất bại từ trong trứng nước của mình, nhưng rồi cách đây đúng năm tháng, tôi nhận được một bức điện từ Darjeeling. Chỉ có ba chữ cụt lủn, nhưng đầy hứa hẹn:
"Tìm ra rồi. Sid"
Tôi chỉ kịp mang theo bàn chải đánh răng.
Tóc Sid đã bạc đi một chút, biệt thự Lhassa cũng không còn chống chọi tốt với mưa nắng dãi dầu nữa. Tôi nhận thấy một phần tường phía sau nhà đã sụp xuống. Nhưng chủ nhân của nó thì vô cùng bồn chồn. Ông lão hối hả bảo tôi ngồi xuống ghế, nhét vào tay tôi một ly whisky pani to tướng và để tôi nhấm nháp.
Đúng một tuần trước đó, Darjeeling trải qua một cơn địa chấn khá mạnh - về mặt địa chất mà nói, Himalaya là một dãy núi khá non trẻ và vẫn còn đang trong quá trình kiến tạo. Cơn địa chấn không đủ mạnh để gây ra những thiệt hại nghiêm trọng, nhưng một đợt gió mùa bất thường kéo dài tiếp sau đó đã gây nên hiện tượng sụt lở đất ở các sườn núi dẫn đến việc làm hư hại một số nhà cửa trong thị trấn. Biệt thự Lhassa không bị hư hỏng nặng, chỉ có một phần bức tường phía sau sụp xuống. Trong lúc kiểm tra thiệt hại, Sid phát hiện ra một cái hộp bằng thiếc bẹp rúm được giấu bên trong mảng tường bị sập.
Lôi cái hộp ra khỏi đống đổ nát, ông thấy trong đó có một gói dẹt được bọc cẩn thận bằng giấy sáp và cột kỹ càng bằng một sợi dây bện rất chắc. Ông mở gói đồ và tìm thấy một tập bản thảo, dày khoảng hơn hai trăm trang với nét chữ viết hoa mỹ không lẫn đi đâu được của cụ cố. Trong tâm trạng xúc động, ông cắm cúi đọc một mạch không nghỉ, đọc xong thì trời cũng vừa rạng. Tất cả đều nằm trong đấy. Hurree đã gặp Sherlock Holmes. Ông đã cùng Sherlock Holmes thực hiện một cuộc hành trình đến Tây Tạng; và vì vậy mà đặt bản thân mình vào những tình huống nguy hiểm và lạ lùng tới mức không thể tin được.
Như vậy, Babu đã không thể cưỡng lại được sự hối thúc của nội tâm và ông đã thẳng thắn giãi bày trên giấy sự thực về những kinh nghiệm của mình, nhưng ông cũng đủ thận trọng tìm cách giấu nó bên trong bức tường phía sau nhà; có lẽ với hy vọng rằng nó sẽ được đưa ra ánh sáng trong một tương lai xa nào đó khi "Cuộc chơi vĩ đại" đã trôi qua, và lúc đó mọi người có thể biết đến cuộc phiêu lưu của ông cùng với nhà thám tử vĩ đại nhất thế giới chỉ với sự kinh ngạc và thán phục.
Sid lấy tập bản thảo ra khỏi ngăn kéo và đặt vào đôi tay đang run rẩy của tôi. Biết tôi cũng có máu văn chương viết lách, Sid cố nài tôi phụ trách khâu biên tập và xuất bản bản thảo trên. Nhưng trong thực tế ngoài việc bổ sung thêm một số chú giải, tôi chỉ phải sửa rất ít.
Babu là một cây bút tài hoa và có kinh nghiệm, văn phong độc đáo, đầy khí lực của ông hẳn sẽ giảm sút đi nếu bị chỉnh sửa quá nhiều.
Sid và tôi chia đôi số tiền thu được từ cuốn sách, mặc dù cả hai chúng tôi đều nhất trí rằng bản thảo gốc cùng với bản sao bản đồ Tây Tạng đi kèm, vì tính lịch sử quan trọng của nó, nên được trao cho một viện nghiên cứu nào đó, nơi các học giả và giới chuyên môn có thể tự do sử dụng.
Tây Tạng có thể bị nghiền nát dưới sức nặng chết người của chính thể chuyên chế Trung Hoa, nhưng sự thật về Tây Tạng không thể dễ dàng bị chôn vùi; và thậm chí một tác phẩm dở dang, kỳ lạ về lịch sử như thế này cũng có thể góp phần "đóng đinh câu rút" ít nhất là một vài tên bạo chúa.

Tháng 10 năm 1988
Jamyang Norbu
Địa chỉ Nalanda Cottage
Dharamshala

Chú thích:
(1) Joseph Rudyard Kipling (1865-1936): nhà thơ. nhà văn người Anh nhưng sinh ra ở Ấn Độ, nổi tiếng với những cuốn sách dành cho trẻ em như Jungle book, The second jungle book, Kim
(2) Đạt Lai Lạt Ma dịch nghĩa là "Đạo sư với trí huệ như biển cả". Danh hiệu này do nhà vua Móng Cổ Altan Khan phong cho phương trượng của trường phái Cách Lỗ (t: gelugpa. Hoàng giáo) năm 1578. Kể từ năm 1617 trở đi. Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 trở thành người lãnh đạo chính trị và tinh thần của Tây Tạng. Kể từ đây, người ta coi Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân của Quan Thế âm. Mỗi một Đạt Lai Lạt Ma đều được xem là tái sinh của vị Đạt Lai Lạt Ma trước.
(3) C.I.E tức commader, một trong ba phẩm trật của Order of Indian Empie (huân chương đế chế Ấn Độ): một phẩm tước hiệp sĩ được nữ hoàng Victoria lập ra vào năm 1877. Hai phẩm trật kia, cao hơn C.I.E. là GCIE (Knight Grand Commander) và KCIE (Knight Commander). F.R.S. viết tắt từ Fellow of the Royal Society, một tước vị phong cho những nhà khoa học kiệt xuất của đế chế Anh, và là một loại thành viên của Hội Khoa học Hoàng gia Anh. Các thành viên này được phép ghi ba chữ FGS sau tên mình.
(4) Tôi đã tưởng đâu cuối cùng thì mình cũng "chạm" tới được người Na Uy bí ẩn, khi tình cờ đọc cái tựa sách này tại Nhà sách Oxford. Darjeeling: Một du khách Na Uy ở Tây Tạng Per Kvaeme (Bibliotheca Himalaylca. Bộ 1 tập 13). Manjusri. New Delhi. 1973. Đáng tiếc, đây chi là văn bàn về một người Na Uy chính cống vốn là nhà truyền giáo.

"Cuộc chơi vĩ đại…"
Trời đất thánh thần ơi! Ai có thể nghĩ ra một cụm từ xấu xa và kệnh cỡm hơn thế để miêu tả những hoạt động ngoại giao quan trọng của Cục điều tra Dân tộc học - cái bộ phận quan trọng nhưng ít được biết đến của chính phủ Ấn Độ, nơi mà tôi, với khả năng rết giới hạn của mình, đã có vinh hạnh được phục vụ suốt ba mươi lăm năm qua. Cụm từ trên là sự sáng tạo của nhà văn Rudyard Kipling, người vào giai đoạn cuối của tờ Pioneer tại Allahabad với lối văn phong báo chí khiếm nhã đáng chỉ trích - chỉ với một đòn đã tìm được cách hạ bệ những hoạt động rất quan trọng của Bộ chúng tôi xuống thành một trong những trận bóng cricket được miêu tả rất hùng hồn trong những bài thơ của Sir Henry Newbolt.
Thật tình, tôi cũng không hiểu rõ mọi việc đã xảy ra như thế nào, nhưng thật không may, ông Kipling đã thu thập được những chi tiết trong vụ việc có liên quan đến "Phả hệ của giống ngựa bạch"(1) mà ông điềm nhiên công bố trong tờ Pioneer số Chủ nhật, ra ngày 15 tháng Sáu năm 1891, với nhan đề "Cuộc chơi vĩ đại: lời đáp từ của Sư tử trước mưu đồ của Gấu". Về bản chất, việc này có liên quan đến liên minh của năm vị tiểu vương ở biên giới Tây Bắc Ấn Độ (những người chẳng có lý do chính đáng gì để câu kết với nhau, bọn họ sốt sắng tiến hành những vụ "đi đêm" với một nhà sản xuất súng ở Bỉ, một chủ ngân hàng người Ấn ở Peshawar, một nhà cầm quyền "bán" độc lập có thế lực là lãnh tụ của những người Hồi giáo ở phía Nam, và - hiếu chiến hơn hết thảy - là một thế lực ở phía Bắc, với quyền lợi không thể nói là trùng hợp với quyền lợi của Đế chế.
Bộ chủ quản hoàn toàn bất ngờ trước diễn tiến tình hình như thế, và tôi được cấp trên cử đi biệt phái lên phía Bắc trong vòng hơn một năm, với nhiệm vụ theo dõi nhất cử nhất động của năm vị tiểu vương nói trên. Có lẽ tôi không phải giải thích những việc diễn ra trong thời gian đó; chỉ cần nói rằng bằng cách thiết lập được mối quan hệ hữu hảo với một viên thư ký được trả lương không thỏa đáng và chuyển một lượng lớn những đồng ru-pi, mà tôi đã tìm cách có được một số mursala quan trọng, còn gọi là quốc thư hay công văn chính thức khiến cho tất cả những con mèo chui ra khỏi rọ, có thể nói như vậy. Tôi đã bí mật chuyển những tài liệu mật nói trên qua các nhân viên chìm của bộ như E.23, C.25 và cuối cùng là K.21 để họ chuyển đến cho Đại tá Creighton, người đứng đầu Bộ chúng tôi.
Chính phủ đã có những ứng phó mau lẹ và nhanh gọn khác thường. Một đội quân tám nghìn người trang bị súng ống được phái ngay lên phía Bắc, bất ngờ đánh úp các tiểu vương trước khi họ kịp ra tay. Nhưng cấp lãnh đạo không chủ trương làm lớn vụ này. Quân đội nhận được lệnh rút về, bởi vì chính phủ cho rằng chỉ dừng lại ở mức độ thị uy đối với năm vị tiểu vương kia là đủ; vả lại, cung cấp quân lương cho ngần ấy lính trên vùng cao cũng rất tốn kém. Đó không phải là giải pháp tốt nhất; quả thật, tôi cho rằng đó là sự tắc trách đáng chỉ trích nhất về phía chính phủ, khi cho phép năm tiểu vương kia - nhũng kẻ bội tín như rắn hổ mang bú sữa bò cạp - được sống sót. Nhưng người ta chính thức cấm chỉ tôi không được phê phán bất cứ động thái nào của thượng cấp; và nếu như lúc này đây tôi có mạo muội nhắc đến vụ việc này, thì cũng chỉ là làm sáng tỏ một cách không chính thức về bối cảnh chính trị lúc bấy giờ.
Khi tờ Pioneer đăng tải bài viết thiếu thận trọng (nói vậy là nhẹ nhất rồi) của ông Kipling, nó gây ra một sự phán ứng khác thường trong Bộ chúng tôi. Ngài Đại tá Sahib nhận định rằng cảm hứng cho bài viết của ông Kipling nhất định đã bắt nguồn từ trong nội bộ mà ra, ngay từ bên trong có thể nói như vậy và Ngài nổi trận lôi đình đối với hành động bội phản đê hèn hết mức đó. Là một người thường ngày khá lãnh đạm và kín đáo, ông xộc qua hành lang tổng hành dinh của Bộ tại Umballa trong "cơn giận chính đáng của một Juvenal(2)". Những cuộc thẩm tra nghiệt ngã diễn ra ngay trong phòng làm việc của ông với tất cả những người có liên quan ít nhiều đến vụ này ngay cả tôi cũng phải trải qua một giờ đồng hổ không lấy gì làm dễ chịu trước cái nhìn như muốn ăn sống nuốt tươi của ngài Đại tá. Tất nhiên, tôi gắng sức làm tốt phận sự của mình, tuy vậy để tỏ ra chân thực tuyệt đối, tôi phải thừa nhận rằng tôi đã hơi toát mồ hôi lạnh trước khi cuộc tra hỏi kết thúc, sine die(3), và cuối cùng tôi cũng được phép rời khỏi phòng.
Kết luận của cuộc điều tra lộ ra một chút thiếu sót then chốt gây ảnh hường đến sự toàn vẹn của Bộ, hơn là như lúc ban đầu chúng tôi đã lo ngại. Hai nhân viên bản xứ trong phòng lưu trữ bị đuổi việc ngay lập tức, một viên đại úy trẻ tuổi người Anh ấp ủ tham vọng văn chương (anh ta thường gửi thơ cùng những thứ đại loại như vậy cho tờ Pioneer) bị thuyên chuyển đến một đơn vị vận tải đóng quân ở Mewar để chăn lạc đà và bò thiến cho đến hết đời binh nghiệp. Ông Kipling nhận được thông báo - thông qua chủ bút của Pioneer - rằng cách hành xử của ông trong vụ việc này không được hoàn toàn chính nhân quân tử, nhưng chính phủ sẽ không đưa ra cách thức "xử lý" vấn đề nếu như ông Kipling không tiếp tục hành nghề nhà báo ở Ấn Độ và quay trở về nước Anh, như sau đó ông đã chấp nhận.
Về phía những sĩ quan như chúng tôi, thật nhẹ cả người khi mọi chuyện đã được làm sáng tỏ, mặc dù C.25 cảm thấy uy tín cá nhân của mình bị đặt thành dấu hỏi bởi sự nghi ngờ của Đại tá. Một quý ông người Pathan(4) bao giờ cũng rất nhạy cảm trong những vấn đề liên quan đến danh dự cá nhân và ngựa nghẽo.
Rồi một ngày nọ người ta tìm thấy cái xác gầy gò, dơ bẩn của E.23 trong một cái rãnh tối om phía sau những chiếc dù mạ vàng của Chatter Munzil ở Lucknow. Hơn một chục vết dao đâm, cùng vài bộ phận bị cắt xẻo nghiêm trọng khác đã gây nên cái chết yểu cho anh chàng xấu số đó.
Tôi hy vọng mình được gọi là một môn đồ xứng đáng của Herbert Spencer(5), đủ dũng cảm để đương đầu với một chuyện nhỏ nhặt như cái chết, mà đó lại là điều có ý nghĩa sống còn ở vào hoàn cảnh tất yếu của tôi. Vậy nhưng, những cánh tay vươn dài của năm vị tiểu vương bên ngoài những con đường độc đạo, cả viên quan thái thú Ấn Độ ở lãnh địa Hồi giáo nào đó tại miền Nam vượt ra ngoài vòng pháp luật của Nữ hoàng (người đã hoàn toàn thỏa hiệp một cách đáng xấu hổ trong vụ "Phả hệ của giống ngựa bạch" đã nói ở trên), đâu chỉ dừng lại ở cái chết. Trước khi thực hiện hành vi giết người đê tiện, bọn họ thường tra tấn nạn nhân một cách man rợ, thậm chí chỉ nhìn thôi cũng đủ khiến người ta đau đớn.
Bị thúc đẩy bởi những suy nghĩ bất an như vậy, tôi vội vã đệ đơn lên Đại tá, xin ông chuẩn y việc nghỉ phép vô hạn định, được hưởng lương đầy đủ cho những ai trong số chúng tôi đã bị phương hại vì bài viết vô ý của ông Kipling, để chúng tôi có thể mai danh ẩn tích cho tới khi chuyện này lắng xuống phần nào. Đại tá phê duyệt đề xuất của tôi, trừ một điểm mà ông muốn sửa đổi để tiết kiệm cho ngân sách. Theo đó, K.21 được đưa tới chỗ một Lạt Ma(6) mà anh ta quen biết để tạm thời nghỉ việc trong một tu viện tại biên giới Tây Tạng, C.25 đến Peshawar sống dưới sự che chở của một người họ hàng. Còn tôi, chỉ được thanh toán nửa lương thì nhanh chóng từ giã những chốn thường xuyên lui tới của mình ở vùng trung du để tới thành phố cảng Bombay rộng lớn, giấu giếm thân phận của mình trong một biển người gồm đủ các dân tộc: người Cuiurati, người Mahharati, người Sikh, người Bengal, người xứ Goa, người Anh, người Trung Quốc, người Do Thái, người Ba Tư, người Armenia, người A rập vùng Vịnh và nhiều dân tộc khác tạo thành một cộng đồng đa sắc tộc nơi "Cửa ngõ Ấn Độ".
Tuy vậy, bất chấp mọi chuyện có thể xảy ra, tôi vẫn phải chịu ơn ông Kipling, vì chính việc lưu đày bí mật của tôi tới Bombay lại là duyên khởi cho cuộc hạnh ngộ may mắn của tôi với một quý ông người Anh nào đó và cùng với ông tôi đã dấn thân vào cuộc phiêu lưu lớn nhất trong đời, bởi vậy mà (nhờ vào việc xuất bản sau đó cuốn sách về các khía cạnh dân tộc học chọn lọc của cuộc hành trình) tôi đã thực hiện được giấc mơ lớn nhất và bền bỉ nhất là trở thành hội viên của Hội Khoa học Hoàng gia.
Nhưng, còn lớn hơn cả niềm vinh dự lớn lao này là việc tôi sẽ mãi mãi nâng niu tình bạn thật sự và sự quý mến mà quý ông này dành cho tôi, người mà tôi bao giờ cũng đánh giá là con người tốt đẹp nhất và thông thái nhất mà tôi từng biết(7).

Chú thích:
(1) Kipling đã phát triển tinh thần của bài viết này trong tiểu thuyết Kim được xuất bản vào năm 1901.
(2) Decimus Junius Juvenalis (A.D. 60?-140?): phiên âm tiếng Anh là Juvenal, nhà thơ châm biếm người La Mã chuyên đả kích sự thối nát và thói ngông cuồng của những tầng lớp đặc quyền đặc lợi trong thời gian trị vì của hoàng đế La Mã Domitian.
(3) Sine die (tiếng Latinh): vô thời hạn
(4) Pathan: Thành viên của nhóm người dân tộc thiểu số miền núi sông ở miền Đông Afghanistan nói tiếng pashto (còn gọi là tiếng Afghan). ngôn ngữ chính thức của Afghanistan và là thổ ngữ chính của các khu vực miền Tây Pakistan
(5) Herbert Spencer (1820- 1903), nhả tư tưởng nổi tiếng thế giới và có sức ảnh hưởng lớn dưới thời Victoria, người đưa ra luận thuyết "triết học tổng hợp" để áp dụng cho khoa học, đặc biệt là thuyết tiến hóa không chỉ trong sinh vật học mà cả trong tâm lý học. xã hội học, nhân loại học, giáo dục và chính trị
(6) Lạt Ma (Lama): theo Phật giáo Tây Tạng. Lạt Ma là hiện thân của giáo pháp. Danh từ Lạt Ma cũng tương tự như guru (đạo sư) của Ấn Độ. Nhưng trong Kim cương thừa Lạt Ma không chỉ là người giảng giải giáo pháp mà còn là người thực hành các nghi lễ, thường lãnh đạo các đại trường và được xem là thuộc về dòng tái sinh. Danh lừ Lạt Ma chỉ những vị cao tăng Tây Tạng: không kể trình độ chứng đạo của các vị đó. Lạt Ma được xem là hiện thân của Phật, trong khi tăng sĩ (nhà sư) chỉ là người tu học trong chùa chiền hay tu viện.
(7) Như một sự trùng hợp có hậu, Watson kết thúc phần niêu tà về cái chết của Holmes tại thác Reichenbach (Điệp vụ cuối cùng) bằng một câu tương tự. Rất có thể: cả Watson và Mookerjee đều nhắc lại một cách vô thức câu nói của một nhà viết tiểu sử thời xưa về cái chết của người bạn và người thầy lừng danh của mình. Plato trong Phaedo đã viết: "Echecrates, bạn tôi, đã chết như thế, người mà tôi thật sự có thể nói rằng trong tất cà những người mà tôi biết trên thế giới này. Ông là người khôn ngoan nhất, công bằng nhất và tốt nhất".

"Mảng trời trên biển A rập sau một đợt gió mùa thường trong vắt và xanh biếc như một miếng ngọc lam Ba Tư. Không khí, được gột rửa sau những cơn mưa vừa tạnh, trở nên tươi mới và trong treo đến nỗi trong lúc dừng chân tại Mũi Malabar ở Bombay, người ta tướng đâu có thể nhìn thấy dường viền của bờ biển A rập và thậm chí nghe dìu dịu trong cơn gió nhẹ "… mùi hương xứ I-ê-mem-cô từ bờ biển đậm hương vị của xứ A rập đầy hạnh phúc"(1).
Tất nhiên đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng lãng mạn thuần túy của tôi; xứ sở kia ở quá xa để có thể ngửi hay nhìn thấy, nhưng từ một vị trí thuận lợi, tôi cố gắng nhìn ra cái mà tôi đã đi ngần ấy dặm đường để tìm cho được.
Vượt qua những chiếc thuyền buồm A rập đậu rải rác trên mặt biển với những cánh buồm duyên dáng nghiêng nghiêng theo chiều gió, con tàu S. S. Kohinoor của Công ty rau Vận tải hơi nước Peninsular & Oriental rẽ mặt biển xanh tiến tới, hai ống khói đen của nó hắt lên bầu trời xanh những dải khói mỏng tang. Tàu đến trễ, lẽ ra nó phải cặp bến sáng nay. Qua cặp ống nhòm tầm xa tậu được ở chợ trời Bhindi, tôi chỉ có thể đọc được cái tên gắn trên vòm cổng ở cảng. Tôi nhanh chóng băng qua đường để đón ticca-ghari(2). Vừa ngồi vào chỗ, tôi đã ra hiệu cho người đánh xe lên đường.
"Chalo"(3)
"Đi đâu, Babuji?(4)
Đến bến tàu, jaldi!(5)
Ông ta giơ tay quất con ngựa non gầy gò bằng một thanh cật tre dài cong vút và xe ngựa lăn bánh xuống đường Ridge. Tôi bỏ một miếng cau vào miệng và nhai một cách trầm tư trong lúc rà soát lại kế hoạch hành động một lần nữa.
Bốn tháng đã trôi qua kể từ khi tôi đến Bombay. Tôi đã có một khoảng thời gian an lành để thực hiện các ghi chép dân tộc học về tục sùng bái nữ thần địa phương Mumba ở chính cái thành phố mang tên bà. Nhưng Đại tá hằn có suy nghĩ rằng những mối nguy hiểm tiềm tàng giờ đây cũng đã lui về phía sau (còn tôi thì được hưởng một kỳ nghỉ xả hơi tốt lành trong khi vẫn được thanh toán nửa lương). Thế nên cách đây khoảng một tuần, một người đưa thư trong vùng - một ông già người Tamil cao lớn đến từ Tuticorin - đã mang taar (từ mà người địa phương dùng để gọi một bức điện tín) đến nơi tạm trú của tôi phía sau nhà thờ Hồi giáo Zakariya.
Lá thư được gởi cho "Hakim Mohendro Lall Dutt" - một trong những bí danh thường dùng của tôi - trong đó toàn là những lời quanh co, luẩn quẩn, tưởng chừng như vô hại, một lối nói rất đặc trưng của Bộ dùng để đảm bảo an toàn cho những liên lạc thư tín giữa chúng tôi, sub rosa(6). Thông điệp chính của nó là có một du khách người Na Uy tên Sigerson, có lẽ là nhân viên của một Lực lượng miền Bắc thù nghịch, ông này đang đến Bombay trên con tàu S.S. Kohinoor. Nhiệm vụ cấp trên giao cho tôi là phải cố lấy lòng ông ta, có thể với vai trò hướng dẫn viên du lịch hay đại loại như thế, để tìm hiểu động cơ khiến ông ta đến Ấn Độ.
Để chuẩn bị cho việc này, tôi phải gia nhập một hãng tàu biển của một ông già là tín đồ của Bái hỏa giáo, vốn là người quen với tôi, một sự tính toán chu đáo quá hóa thừa.
"Hai, rukho"(7) người đánh xe quát con ngựa nhỏ đang kéo chiếc xe tới trước cổng bến tàu Ballard. Tôi xuống xe và mặc cho lời kèo nài tráo trở của gã đánh xe đòi cho được hai anna, tôi chỉ trả cho hắn dúng giá là một anna, rồi vội vã bước qua cầu tàu.
Dưới bến san sát những chiếc tàu buôn và tàu chiến của Anh, nhưng tôi kịp trông thấy con tàu Kohinoor đang từ từ được những chiếc tàu kéo nhỏ tỏa khói mù mịt kéo vào bờ.
Phòng làm việc tối om và phủ đầy bụi của chủ bến tàu gần như trống hoác, chỉ có mỗi viên thư ký người Gujurati đang ngồi, vẻ mơ màng biếng nhác sau bàn giấy, xỉa xỉa hàm răng đỏ quết trầu(8). Một đồng ru-pi hào phóng tiền "trà nước" tạo cho tôi cơ hội liếc qua bảng danh sách hành khách có mặt trên tàu Kohinoor. Du khách người Na Uy ở cabin 33, trong khoang hạng nhất.
Khi tôi ra khỏi cái văn phòng mốc meo đó, thủ tục cho tàu vào cảng đã hoàn tất, bọn cu li và phu cảng từ các hướng đổ xô tới mạch đường màu xám rộng lớn, nơi cầu tàu đang xoay hướng với những sợi dây cáp to và dày trùng trục. Con tàu trắng lừng lững vượt lên trên mọi người và mọi vật xung quanh như một tảng băng trôi khống lồ. Khi ván cầu được bắc lên, trong vai một nhân viên của hãng, tôi cũng lao lên tàu, dùng vai huých đẩy để lách qua đám đông toàn nhân viên phục vụ trên tàu, cu li, thuỷ thủ người Ấn và cả những gì gì nữa. Sau khi đi qua những hành lang đông đúc, phòng ăn, phòng chơi bài, phòng đánh bi-a và một phòng khiêu vũ tráng lệ, cuối cùng tôi cũng lên đến được boong tàu phía trên trông ra ngoài cảng và cabin số 33.
Người Na Uy đang đứng trước cửa cabin của mình, dựa người vào lan can tàu, hút tẩu thuốc một cách trầm ngâm trong lúc nhìn xuống đám đông hỗn loạn dưới cầu tàu. Cả con người lẫn vẻ mặt ông đều có cái gì đó thu hút sự chú ý ngay cả của một kẻ qua đường bàng quan nhất. Đó là một người đàn ông cao dễ đến 1,90 mét, thân hình gầy nhẵng. Thấy tôi bước lại gần, ông đứng thẳng lên khỏi rào chắn và lúc này trông ông như còn cao hơn nữa.
"Thưa, có phải là ngài Sigerson không ạ?"
"Vâng!"
Ông ngoảnh hẳn mặt về phía tôi. Chiếc mũi diều hâu nhòn nhọn tạo cho khuôn mặt ông một vẻ đặc biệt linh hoạt và quyết đoán, cả cái cằm cũng làm nổi bật những đặc điểm của một con người cương nghị và mạnh mẽ. Rõ ràng, ông không hề giống với một người mà ta có thể nói những chuyện bông phèng vớ vẩn được.
Tôi bèn chuẩn bị để tự biến mình thành một kẻ khúm núm và giỏi tâng bốc.
"Thưa ngài, tôi là Satyanarayan Satai, một sinh viên thi trượt vào trường Đại học Allahabad," tôi nói, trang trọng cúi đầu theo lối chào của người Hồi giáo. "Thật là một vinh dự và đặc ân to lớn đối với tôi, với tư cách người đại diện của hãng tàu biển Messrs Allibhoy Vallijee and Sons, được chào mừng ngài đến bờ biến của Đế quốc Ấn Độ và được làm tất cả để đảm bảo cho chuyến viếng thăm và thừa hành công vụ của ngài tại thành phố lớn Bombay được hoàn toàn tiện nghi thoải mái". (Lúc nào việc một người bản xứ tạo cho một quý ông người Âu rằng anh ta là một kẻ có giáo dục theo lối nửa mùa cũng mang lại những lợi ích lớn)
"Cám ơn". Ông quay lại chiếu vào tôi cặp mắt long lanh khác thường, phát ra thứ ánh sáng sắc sảo, dò xét không lấy gì làm dễ chịu. "Ông đã từng ở Afghanistan, tôi nghĩ vậy".
Dĩ nhiên, tôi hoàn toàn không chờ đợi một nhận xét bất ngờ đến vậy, nhưng tôi tin rằng mình đã cố hết sức trấn tĩnh, khởi động đầu óc đủ nhanh để có một câu trả lời dẫu không hoàn toàn có sức thuyết phục thì cũng thích hợp trong hoàn cảnh này.
"Cái gì… Ôi, không, không thưa ngài. Tôi chỉ là một người Hindu hèn mọn nhất đến từ Oudh, một kẻ tiện nhân hiện đang có một chỗ làm khá béo bở và được trả lương hậu hĩnh, với tư cách là nhân viên văn phòng bán chính thức - pro tem - trong công ty tàu biển đáng kính trọng này. Còn Afghanistan ư? Chà, chà! Thưa quý ngài, đó là vùng đất lạnh lẽo khốn khổ, thiếu những cơ sở hạ tầng cần thiết và những tiện nghi văn minh, còn bọn người bản xứ đều là những kẻ giết người man rợ, một loại người Hồi giáo tồi tệ nhất, vô phương cứu vãn, nằm ngoài phạm vi luật pháp oai nghiêm của người Anh. Tại sao tôi lại phải đến Afghanistan cơ chứ?
"Thực vậy sao?". Ông khách trả lời với một tiếng cười gằn cụt lủn không giấu vẻ cay độc. "Nhưng hãy quay lại vấn đề ông đã nêu ra, tôi cho rằng mình hoàn toàn có thể xoay xở được mà không lạm dụng lòng tốt của ông, mặc dù tôi dám chắc rằng lời đề nghị của ông có lẽ rất hữu dụng và cần thiết. Tôi chỉ mang theo một ít hành lý và có thể tự mình lo mọi việc. Xin cám ơn ông".
Đặt trước cửa cabin của ông là một cái xắc du lịch hiệu Gladstone và một cái hộp dẹp hình bầu dục, tồi tàn vì sử dụng lâu ngày. Trông nó giống một cái hộp đựng đàn vĩ cầm, cũng cái loại mà Da Silva, một nhạc công trẻ người Goa sống cạnh nhà tôi thường mang theo mỗi khi ra ngoài vào buổi tối để chơi nhạc trong bữa ăn tại dinh Thống đốc.
Tất nhiên, chỉ riêng việc này thôi đã gây ra không ít những nghi ngờ. Không một quý ông người Âu có lòng tự trọng nào đi du lịch đến Ấn Độ mà lại không mang theo ít nhất là ba rương hành lý, đó là chưa kể tới những món lặt vặt khác như hộp dựng mũ, bao súng, chăn gối và một hộp đựng công văn, giấy tờ. Lại nữa, không một quý ông người Anh nào, chí ít nếu người ấy là một pukka(9), mà lại chơi vĩ cầm cả. Âm nhạc là thứ dường như chỉ dành riêng cho người Pháp, người Eurasia và các nhà truyền giáo (mặc dù trong trường hợp nhà truyền giáo, thì dàn đạp hơi là nhạc cụ được yêu thích hơn cả).
Và cũng không có quý ông nào lại khệ nệ mang hành lý một mình. Thế mà đó lại là việc mà vị khách Na Uy này muốn làm. Với cái xắc Gladstone bên tay trái, hộp đựng đàn vĩ cầm bên tay phải và chiếc tẩu ngậm trong miệng, ông sải những bước dài di ngang qua boong rồi bước xuống ván tàu và bình thản đi giữa đám đông lộn xộn trên cầu tàu, tất cả ồn lên như ong vỡ tổ với những lời chèo kéo nhao nhao mời chào của đám cu li; hẳn là bọn họ đề nghị mang hành lý cho ông để kiếm chút tiền.
Dĩ nhiên, thất bại tạm thời trong kế hoạch của tôi chỉ đơn thuần là do thiếu may mắn, hay do kismet(10) như chúng tôi vẫn nói theo tiếng bản địa. Dù vậy, tôi không thề ngăn được cảm giác băn khoăn lo lắng trước trí tuệ quá thông minh sắc sảo của người Na Uy này. Nhân danh tất cả các vị thánh thần của người Hindu, làm thế nào mà ông ta biết được, ngay từ cái nhìn đầu tiên, rằng tôi đã từng ở Afghanistan? Tôi sẽ không phủ nhận rằng mình đã đến đất nước lạc hậu đó cách đây không lâu. Trong lần đầu tiên ấy, khi khoác áo một quan toà, khi thì giả danh một bác sĩ địa phương, tôi đã kín đáo thực hiện một số vụ điều tra về những mối quan hệ bất chính có thể có giữa liên minh năm tiểu vương với quốc vương Afghanistan, nhưng thật không may tôi đã chẳng thu được kết quả nào. Sau đó khá lâu, ngay sau cuộc tập trung quân trừng phạt năm ông vua kể trên, tôi từng phải vượt qua những ngọn đèo ngập tuyết bên kia dãy Khyber, lần này thì trong vai một nhân viên lao động tiền lương đến chỗ các công nhân xây dựng đang thi công một con đường mới cho người Anh. Vào một đêm cũng trong cái chuyến thám hiểm ấy, tôi gặp phải một cơn bão tuyết khủng khiếp, mà nào đã hết đâu, tôi còn bị tên dẫn đường người Afridi cố tình bỏ lại một mình cho đến chết. Bàn chân tôi đông cứng lại, một ngón chân bị rụng… nhưng thôi, điều này chẳng có gì can dự đến câu chuyện đang kể.
Có điều gì đó thật mơ hồ, khó lý giải về người bạn Na uy của chúng ta, cái mà bạn chỉ có thể cảm nhận chứ không thể ước định bằng mắt, càng không thể đưa ra một lời nhận xét rõ ràng.
Trí tò mò của tôi trỗi dậy. Người Bengal chúng tôi - tôi nói điều này với tất cả sự khiêm tốn - không giống như hầu hết những tộc người thờ ơ lãnh đạm khác, chúng tôi là một dân tộc luôn cháy bỏng niềm khát khao kiến thức. Nói tóm lại, chúng tôi là những người hiếu kỳ, thích tìm hiểu về mọi sự trên đời.
Tôi bám theo người Na Uy đi xuống tàu, vượt qua đám đông hỗn loạn đứng ở cầu tàu. Với chiều cao như vậy, rất dễ nhận ra ông khách trong đám đông và dù ở đâu tôi cũng có thể nhìn thấy mái đầu xương xương của ông vượt lên cao hơn hẳn mọi người.
Tôi hết sức thận trọng không để ông phát hiện, may mà tôi có nhiều cơ hội ẩn mình sau những đống hành lý và hàng hoá chất cao trên bến tàu.
Ghé mắt nhìn qua một đống sọt, tôi thấy người Na Uy đi vào nhà khách, một kacha (11) dài, lợp tôn múi loại có phủ PWD.
Tôi nhanh nhẹn đi đến gần, lẻn đến chỗ cánh cửa hé mở và nhìn vào bên trong. Người Na Uy đặt cái xắc Gladstone và hộp đàn violon lên một trong những cái quầy dài mạ kẽm và đang gõ gõ những ngón tay dài mảnh dẻ lên mặt quầy vui vẻ thiếu kiên nhẫn vì phải chờ đợi. Hoàng hôn đổ những cái bóng dài xuống mọi vật và do khoảng không gian tranh tối tranh sáng trong phòng mà thoạt đầu tôi không chú ý ngay đến một sĩ quan cảnh sát trẻ trong bộ đồ vải ka ki, lúc này hắn đang tiến về phía ông khách Na Uy. Người này dong dỏng cao, nước da tai tái, thuộc lực lượng sĩ quan cảnh sát quận, gọi tắt là DSP, hắn mang thắt lưng và đai, đội mũ sắt, đinh thúc ngựa bóng loáng; tóm lại có đủ lệ bộ của một kẻ đang thi hành công vụ, hắn ta đi đi lại lại dáng khệnh khạng, một tay đưa lên vân vê bộ ria đen nhánh.
Tôi giật mình. Chính là Strickland! Trời đất ơi, cái ngày quái quỷ gì mà chỉ toàn xảy ra những sự việc ngoài dự tính thế này!
Có lẽ, tôi cũng cần có một lời giải thích với quý độc giả: ngài đại uý E. Strickland, mặc dù trên danh nghĩa chính thống là một sĩ quan đáng tin cậy và đáng trọng của cảnh sát Ấn Độ, nhưng ở khía cạnh khác của cuộc đời lại là một trong những tay chơi giấu mặt của "cuộc chơi" (cái từ có hàm ý rất xấu của cái ông Kipling ấy), và là một trong những người giỏi nhất(12). Vậy mà người ta bảo tôi rằng anh ta đang ở Bikaner, một thành phố bí ẩn trong Sa mạc Vĩ đại của Ấn Độ (nơi có các giếng nước nằm cách mặt đất hơn 100 mét và xương lạc đà chất thành từng đống), nhưng tôi có thể hiểu được điều này. Anh ta giống như loài cá sấu, bao giờ cũng dầm mình ở những chỗ nước cạn.
Anh ta bắt tay người Na Uy và nói điều gì đó với ông. Tôi không nghe được những gì họ trao đổi với nhau bởi tiếng ồn của đám đông hỗn loạn không thể kiểm soát ngoài bến tàu. Một lúc sau, Strickland quay ra nói gì đó với một nhân viên người lai, rồi cúi xuống cầm cái xắc du lịch lên và cùng người Na Uy rời khỏi nhà khách. Tôi bám theo sau, cố giữ một khoảng cách an toàn.
Ra khỏi cổng, Strickland gọi một chiếc xe ngựa. Cả hai biến vào thùng xe, chiếc xe bon bon chạy khỏi khu vực cảng, đi xuống đường Frere Road.
Một trực giác may mắn nào đó xui khiến tôi tiếp tục nán lại phía sau những cây cột đồ sộ xây theo kiều Corinth trong toà nhà chính của bến tàu; vì ngay sau đó một người đàn ông nhỏ thó mặt choắt như mặt chồn sương, khoác trên người hộ đồ bằng vải bông dày kiểu nhiệt đới - cái màu trắng nguyên thuỷ của nó giờ đã thành ra màu đưa khú - trên đầu tùm hụp một chiếc mũ cát to quá khổ.
Hắn lén la lén lút chuồi ra khỏi bóng tối cái nhà kho gần đó và đi vào khu vực được chiếu sáng bởi những ngọn đèn khí đốt vừa thắp lên, phát ra những tiếng xèo xèo, loại đèn dùng đề chiếu sáng tại bến xe và lối vào Cảng Lớn. Cả dáng điệu lẫn con người hắn đều toát lên một vẻ gì đó gian giảo, có vẻ hắn đang bí mật theo dõi Strickland hoặc người Na Uy và như để chứng minh cho sự nghi ngờ của tôi, thoắt một cái, hắn đã nhảy lên một trong những chiếc xe ngựa đang xếp hàng dài chờ khách. Yên vị trên xe rồi, hắn liền nói cái gì đó hướng dẫn người đánh xe, hắn còn đưa cả tay ra chỉ về phía chiếc xe ngựa vừa nhanh chóng khuất dạng, mang theo mấy con mồi. Người đánh xe vung roi quất vào lưng ngựa và họ đuổi theo sát nút chiếc xe kia.
Sự cố này khiến cho buổi tối của tôi trở nên thực sự sôi động, toàn "những lời cảnh báo và những cuộc rượt đuổi" như một thi sĩ có thể viết. Đến lượt mình, tôi cũng gọi một chiếc xe ngựa và tức tốc đuổi theo.
Cuộc sống về đêm của thành phố vừa mới bắt đầu. Những người có nhiệm vụ đem lại ánh sáng cho đô thị đã hoàn thành công việc thắp đèn trên các đường phố. ở bất cứ đâu cũng có thể thấy từng đám cu li, mặt mũi den nhẻm, mồ hôi nhễ nhại đang còng lưng đẩy những chiếc xe cút kít quá tải lẩn vào dòng người tuôn chảy trên đường phố, mà đa số là các thư ký và công chức cấp thấp. Vận áo khoác màu trắng, họ túa ra từ các văn phòng chính phủ, hối hả trở về nhà sau một ngày làm việc. Những người bán bánh kẹo dạo và các kunjri hèn mọn (những người bán trái cây và rau quả) gân cố lên rao hàng trên vỉa hè, các quầy hàng của họ được thắp sáng bằng những ngọn đèn bám đầy muội, mùi khói cay xè trộn lẫn với cái mùi hỗn hợp của đủ mọi loại hương thơm khác: mùi gia vị, mùi hoa nhài, cúc vạn thọ, gỗ đàn hương và cả phấn hoa bán theo mùa. Một đám lâu nhâu những thằng nhãi con gần như ở truồng không biết từ đâu lao ra đường, vừa gào thét vừa nhay lên bám vào các xe ngựa chạy ngang, đôi lúc chúng còn nhảy lên nhảy xuống những chiếc xe điện kêu leng keng, trước cơn giận dữ của những người bán vé.
Tại vòng xoay Horniman, một đám rước dâu rầm rộ khiến giao thông gần như bị ngưng trệ. Những người phu mang theo đèn lồng, xúm lại thắp sáng cho cái cảnh tượng hỗn độn đầy màu sắc này, trong lúc đó một ban nhạc địa phương, không có vẻ gì phù hợp với thị hiếu của người dân nơi đây, đang ra sức chơi trống định âm và kèn cố, tạo ra một thứ âm thanh nghe rất chối, nhưng lại hết sức sôi động, làm nền cho một nhóm vũ công đang bước đi với những điệu nhảy hoang dã ngay phía trước chú rể.
Nhân vật chính của sự kiện này tất nhiên trông hết sức lộng lẫy. Anh ta diện một bộ trang phục đi đánh trận của một ông hoàng Rajput, trong tư thế ngồi giạng chân sang hai bên với dáng vẻ căng thẳng, gò bó trên lưng một con ngựa chiến trang trí theo lối cổ Một cái mạng che mặt kết bằng những bông cúc vạn thọ, ngăn không cho thiên hạ chiêm ngưỡng khuôn mặt của một gã đàn ông hạnh phúc đang trên đường đến nhà cô dâu của mình, cái mạng rủ xuống đến tận quả táo phía trước yên ngựa.
Tôi đưa mắt nhìn hai chiếc xe ngựa đứng bất động ngay phía trước, cách xe của tôi khoảng bảy mét. Người đàn ông có khuôn mặt chồn sương làm ra vẻ tò mò, chú mục vào đám rước trước mặt, tuy vậy hắn ta cứ chốc chốc lại làm như tình cờ, lia ánh mắt dò xét nhìn vào chiếc xe ngựa phía trước để kiểm tra xem nó còn đó không, dù biết chắc rằng xe cộ trên đường ken vào nhau chật như nêm cối. Khuôn mặt quắt lại, sắc cạnh với một cái mũi nhỏ, nhọn hoắt tương xứng với nó, nhưng cái vẻ chưng diện của hắn hoàn toàn không ăn nhập với dáng người ốm đói; chòm râu đỏm dáng của hắn mà tôi nghĩ là theo "mốt sườn cừu”, kiểu thịnh hành cách đây khoảng mười năm về trước. Một người da trắng, nhưng rõ ràng không thuộc tầng lớp trên.
Cuối cùng, nhờ vào cung cách làm việc mẫn cán và cương quyết, cùng tiếng còi đầy uy lực của một "cây mao lương hoa vàng Bombay" - biệt danh đặt cho những viên cảnh sát trong thành phố này bởi chiếc mũ lưỡi trai tròn màu vàng rất đặc trưng của họ - đám rước dâu quẹo về phía nhà ga Churchgate và xe cộ lại được phép lưu thông. Ít phút sau, chiếc xe ngựa đầu tiên chở Strickland và người Na Uy rẽ trái, hướng về phía bến cảng Apollo, sau đó chạy vào một con phố nằm ngang, rồi phóng thẳng vào lối đi dành cho xe ngựa của khách sạn Taj Mahal. Toà nhà đồ sộ nguy nga, cao năm tầng với những dãy cuốn và ban công trang trí rất hoa mỹ dẫn đến một mái vòm trung tâm lớn (cùng những mái vòm nhỏ hơn ở bốn góc) tạo nên ấn tượng về cung điện của một ông hoàng Ấn Độ hơn là một khách sạn thông thưởng.
Không thấy chiếc xe chở gã có khuôn mặt chồn sương đâu cả. Tôi thận trọng nhìn ra xung quanh, nhưng nó đã biến mất. Tôi bèn trả tiền cho người đánh xe ở ngay ngoài cổng, rồi đi vào.
Bất chấp ánh mắt nghi ngờ soi mói của anh nhân viên gác cửa khổng lồ người Sikh, tôi làm vẻ đĩnh đạc bước qua cánh cửa của cái nơi sau này sẽ trở thành Cung điện Nghìn lẻ một đêm, vừa đúng lúc bắt gặp cảnh Strickland đang trao đổi điều gì đó với một người châu Âu mặc trang phục dạ hội mà tôi phán đoán một cách chính xác là quản lý khách sạn này. Sau đó, viên quản lý lịch sự dẫn Strickland và người Na Uy đến một hành lang nằm khá xa tiền sảnh và vài giây sau ông ta quay lại, chỉ có một mình. Tôi vội vã băng qua tiền sảnh thênh thang trong khách sạn, cố hết sức không để ai chú ý đến. Một burra mem(13) trang nghiêm rất mực - đích thị là phu nhân của một uỷ viên tài phán nào đó - vận váy dài dạ hội trắng lốp như bông chằm chằm nhìn tôi qua chiếc kính cầm tay. Ánh lửa lóe lên nơi khóe mắt khép hờ của quý bà lộ một vẻ kiêu kỳ đến khiếp khiến tôi hiểu, bà ta cho rằng một kẻ như tôi không xứng đáng bước chân vào một khung cảnh tráng lệ như thế này. Tôi nở một nụ cười cầu thân, nhưng với một tiếng khịt mũi đầy khinh rẻ, bà tay quay lại với cuốn sách. Không còn ai khác chú ý đến tôi.
Dọc theo hành lang là một dãy phòng vệ sinh và ở cuối dẫy là văn phòng của viên quản lý. Gần tới cửa, tôi bước nhón chân, cố dỏng tai lên nghe, láng máng nhận ra giọng nói của người Na Uy.
Trên cánh cửa có một lỗ khoá khá to. Tôi cho rằng đứng ở đây tôi sẽ không bị người ở tiền sảnh trông thấy, vả lại hễ có ai đi xuống hành lang, tôi có thể nhanh chóng lẩn vào một trong những phòng vệ sinh gần đấy. Vì vậy, sau khi lẩm bẩm thật nhanh lời cầu nguyện thành tâm với tất cả những vị thần thánh mà tôi nhớ ra được, tôi cúi xuống và nhẹ nhàng áp tai phải vào lỗ khoá.
Tôi thừa nhận rằng đó là một việc làm của một tên vô lại, nhưng một người dân thuộc địa lại đi làm cái nghề như tôi thì chẳng mong được người đời nhìn nhận là chính nhân quân tử.
"Tôi thành thật xin lỗi vì những bất tiện mà ông có thể đã phải chịu đựng," giọng nói của Strickland vang lên, rõ ràng như thể anh ta đang nói ngay bên cạnh tôi. "Nhưng Đại tá Creighton vừa nhận được điện tín từ London cách đây hai ngày và ông ấy vội phái tôi đến đây, càng nhanh càng tốt đề đón ông".
"Tôi hy vọng thông tin về việc tôi đến đây được giữ bí mật hoàn toàn".
"Chắc chắn rồi. Chỉ có Đại tá và tôi biết chuyện," Strickland nói, giọng hơi có vẻ ngập ngừng. "Ừm, nếu nói một cách hoàn toàn thành thực thì có lê có ai đó cũng đã nhận được thông tin, nhưng lúc này thì điều đó không thành vấn đề nữa".
"Dù vậy, tôi sẽ rất cảm kích, nếu anh vui lòng kể rõ cho tôi biết ngọn ngành".
"Ông biết đấy, cách đây khoảng ba tuần, chúng tôi nhận được một bức điện từ một trong những nhân viên của chúng tôi, một người Ai Cập làm việc tại cảng Said. Ông ta thông báo rằng có một người đàn ông tự nhận mình là một du khách người Na Uy, nhưng không có đồ đạc hay bất cứ hành lý gì cả, người này đã xuống một con tàu tiếp phẩm ở cảng Said và đăng ký đến Ấn Độ trên một chiếc tàu thuỷ của công ty P&O có tên là Kohinoor. Chúng tôi đã thông báo cho tất cả người của mình tại những cảng mà con tàu này đi qua, lệnh cho họ báo cáo tường tận về tất cả những người châu Âu đến Ấn Độ với bất cứ mục đích nào có vẻ khác thường. Ông biết đấy, trong mấy năm qua, chúng tôi đã gặp khá nhiều rắc rối với các nhân viên của… chẳng hạn, Lực lượng phương Bắc hay gây hấn, bọn chúng khuấy động những bất đồng với nhà cầm quyền địa phương, chậc, thì đại loại những việc như thế. Do đó, trước khi bức điện từ London đến chỗ chúng tôi, Đại tá đã cử một người trong chúng tôi ở đây để theo dõi ông. Nhưng bây giờ thì mọi chuyện đã ổn cả. Có vẻ như là tôi đã đến gặp ông trước ông ta".
"Ồ tôi cũng không rõ…"
Tiếp sau đó là một thoáng im lặng ngắn ngủi, đột nhiên cánh cửa vững chắc mà tôi đang tựa vào bật mở, rồi một bàn tay cứng như gọng kìm lôi tuột tôi vào phòng bằng cách kẹp chặt vào cổ tôi. Thật là một kiểu ra mắt đáng xấu hổ và tôi lấy làm hổ thẹn cho mình.
"Chuyện quỷ quái gì thế…" Strickland kêu lên, nhưng sau khi nhìn thấy mặt kẻ gian thì anh ta trở lại bình tĩnh. Người Na Uy không còn kẹp lấy cố tôi một cách dữ tợn nữa mà đã buông ra và quay lại đóng cửa. Tiếp đó ông đi vòng ra sau một chiếc bàn giấy bằng gỗ gụ phủ khăn bằng vai len tuyết và đĩnh đạc ngồi xuống ghế, bắt đầu châm tẩu thuốc.
"Tôi đã nghe thấy tiếng người này từ năm phút trước, nhưng không muốn cắt ngang câu chuyện thú vị của anh". Ông nói với Strickland rồi quay đầu về phía tôi và một lần nữa khuất phục tôi bằng cái nhìn soi thấu tâm can người khác. "Chỉ vài tiếng khò khè thôi, có phải không, thưa ngài? Hơi thở của ông có phần hơi nặng nề so với loại công việc này".
"Tôi e rằng tất cả chỉ là một…" Strickland cố xen ngang vào câu chuyện.
"Không cần phải giải thích, anh bạn Strickland thân mến," người Na Uy nói với một cái khoát tay thờ ơ. "Tất nhiên, mọi thứ đã rõ như ban ngày. Quý ông người địa phương to lớn đang tỏ vẻ bối rối kia chắc chắn là tay chân thân tín mà Đại tá Creighton đã phái đến theo dõi một tên Na Uy xấu xa. Ít nhất thì diện mạo và khả năng của ông ta cũng tạo được niềm tin theo cách đánh giá của Đại tá. Chà, một người thông minh, không còn nghi ngờ gì nữa, và là một học giả, hay ít nhất cũng là người quan tâm đến một vấn đề học thuật uyên thâm nào đó. Đồng thời cũng là một chuyên viên lập bản đồ địa chính kỳ cựu và một nhà thám hiểm đã dành nhiều thời gian du khảo trên dãy Himalaya. Và, vì tôi đã có hân hạnh được tiếp chuyện ông ta cách đây vài giờ nên tôi biết, đó là một người từng ở Afghanistan. Hơn nữa, tôi e là ông ta có quen biết anh, Strickland ạ, trong một mối quan hệ không trực tiếp đến Bộ của anh. Tôi có đúng không, nếu mạo muội cho rằng đó là mối quan hệ thông qua một hội kín"
"Trời đất ơi!" Strickland kêu lên. "Làm thế quái nào ông đoán ra được tất cả những chuyện ấy?"
"Tôi chưa bao giờ đoán cả," người Na Uy trả lời, giọng có vẻ hơi khó chịu, "phỏng đoán là một thói quen tai hại, nó phá hỏng khả năng suy luận lô-gíc".
"Đây là điều tuyệt vời nhất," tôi bất giác thốt lên, trong khi bản thân vẫn bị chấn động bởi cú sốc trước những điều vừa được tiết lộ ngoài mong đợi như thế.
"Chậc, chỉ là những chuyện tầm thường," người Na Uy nói. "Đó thuần tuý là vấn đề tự rèn luyện để thấy được những gì mà người khác bỏ sót". Ông ngả lưng vào thành ghế, duỗi thẳng đôi chân dài trong lúc chụm các đầu ngón tay vào với nhau.
"Anh thấy đấy, Strickland thân mến," ông bắt đầu nói với một giọng điệu hồi tưởng của một giáo sư đang lên lớp. "Mặc dù khi ngồi, phần thân phía trên của quý ông này dễ làm cho người ta nhầm lẫn, nhưng bắp chân của ông ta, lồ lộ dưới ống quần may hằng vải dệt tay của người địa phương, cho thấy những mạch máu nổi rõ và một cơ bắp phát triển, điều này chỉ có thể được giải thích bằng việc đi bộ thưởng xuyên và tích cực, nhiều khả năng là ở những khu vực có nhiều núi đồi. Bàn chân phải ông ta, đang xỏ trong đôi xăng đan đục lỗ kia, thiếu mất ngón giữa. Nó không thề bị đứt lìa trong một tai nạn hay một cuộc đọ sức dữ dội nào vì những ngón chân bên cạnh có vẻ không hề hấn gì; ngoài ra chúng ta phải khẳng định rằng các ngón chân không thề bị tòe ra như những ngón tay dù có trải qua bất cứ thủ thuật cắt tiện tiên tiến nào di nữa. Bởi vì nhìn qua cũng biết, nước da nhuận sắc khỏe khoắn của quý ông này cho thấy ông ta đủ sức khỏe chống lại bất cứ loại bệnh tật nào, như bệnh phong chẳng hạn. Từ đó, tôi đi đến một kết luận hoàn toàn có cơ sở rằng việc bị mất một ngón chân của quý ông này là do bị lạnh quá mức, và còn có nơi nào khác trên đất nước này ngoài dãy Himalaya, nơi phải hứng chịu những cơn bão tuyết dữ dội nhất.
"Tôi cũng nhận thấy rằng ông ta có tật máy mắt phải, đó là căn bệnh nghề nghiệp của các nhà thiên văn học, các nhà nghiên cứu làm việc trong phòng thí nghiệm và nhân viên lập bản đồ địa chính, những người thường xuyên phải nheo một con mắt nào đó khi nhìn quá lâu qua kính thiên văn, kính hiển vi hay máy kinh vĩ. Kết hợp với sự thật là ông ta thường đi dạo trên dãy Himalaya, thì công việc trắc địa là nghề nghiệp khả dĩ nhất trong trường hợp này. Tất nhiên nghề trắc địa cũng là một công việc vô hại, không hề có mối liên hệ thông thường nào với những người đang đóng vai một người khác. Vì thế trong trường hợp này, tôi đi đến kết luận rằng, ông ta đã thực hành những kỹ năng của mình tại những vùng lãnh thổ, nơi mà bản chất công việc và nhân thân thật sự của ông ta cần phải giữ trong vòng bí mật, nhất là trong những khu vực thù địch và cho đến nay vẫn chưa được khám phá.
Thế đấy, nhà thám hiểm Himalaya của chúng ta. Voilà tout"(14).
"Thế còn nhận định cho rằng tôi thông minh và có hứng thú đối với nghiên cứu khoa học?" Tôi kinh ngạc hỏi.
"Điều đó rất đơn giản," ông cười lớn. "Mức độ thông minh có thể dễ dàng suy ra từ việc đầu ông có kích cỡ lớn hơn mức bình thường. Đó là một câu hỏi về công suất hình khối. Một bộ não lớn như thế hẳn phải có cái gì bên trong chứ. Xu hướng quan tâm đến khoa học của ông có thể dễ dàng được nhận biết từ mép cuốn tạp chí màu xanh mà tôi đã thoáng thấy từ túi chiếc áo choàng của ông. Màu và gáy của tờ Asiatic Quarterly Review rất dễ nhận ra".
"Nhưng còn về Afghanistan? " tôi nói, giọng hơi the thé vì xúc động.
"Điều đó chẳng quá rõ hay sao? Tôi sẽ không hạ thấp một trí tuệ mà tôi vừa mới tán dương bằng cách nói toạc ra rằng tôi biết được điều đó một cách dễ dàng như thế nào đâu".
Có một tia sáng vụt long lanh trong mắt người Na Uy khi ông quay lại nói với Strickland.
"Khi cổ áo sơ mi đồng phục của một viên cảnh sát người Anh thấp thoáng hình dáng đặc biệt của một lá bùa hộ mạng kỳ lạ của người bản xứ, cũng cái loại bùa được công khai quấn quanh cổ quý ông người địa phương đây, thì nhất định ta có thể cho rằng ắt hẳn giữa hai người phải có mối liên hệ nào đó. Trong khi cân nhắc các khả năng thì việc hai người các anh thuộc về một hội đoàn nào đó, có thể là một tổ chức bí mật, là khá cao.
Hơn nữa, theo những gì đã đọc được về đề tài này, tôi được biết rằng nước Trung quốc láng giềng với đất nước các anh bị quấy phá khá nhiều bởi những tổ chức kín như vậy. Ryder, trong cuốn Lịch sử của những hệ thống thờ cúng tôn giáo bí mật, cung cấp rất nhiều thông tin về chủ đề đó".
"Trời đất thánh thần ơi?" Strickland vừa kêu lên, vừa lắc đầu kinh ngạc. "May phước là chúng ta không sống ở thời Trung cổ, ngài Holmes ạ, nếu không thì chắc ngài sẽ bị chết cháy trên giàn hoả thiêu mất". Anh ta ngả lưng ra sau ghế và thở dài, "Saat Bhai hay Bầy huynh đệ là một tổ chức Mật giáo(15) đã tuyệt tích từ rất lâu rồi, nhưng ông Hurree Chunder Mookerjee đây đã có công khôi phục lại vì lợi ích của một số người trong Bộ chúng tôi. Lá bùa hộ mạng này còn gọi là hawa-dilli (có nghĩa là khuyến tâm) đã được bà phù thuỷ mù Huneefa trao cho tôi sau lễ kết nạp thành viên mới, gọi là dawat. Bà ta chỉ làm bùa cho chúng tôi mà thôi. Mụ phù thuỷ già hoàn toàn tin rằng mình đang làm bùa cho một hội kín thực sự và còn đính kèm miếng bùa một mảnh giấy trong đó có ghi tên các vị thần thánh và cả những thứ khác không thuộc về thần thánh nữa. Lá bùa giúp chúng tôi nhận ra một thành viên mà chúng tôi chưa gặp bao giờ hoặc giả người này đang cải trang làm một người nào đó. Tất nhiên toàn bộ chuyện này không hề chính tắc chút nào".
Cách nói năng thân mật của Strickland khiến tôi hiểu rằng cái ông được gọi là "người Na Uy" này tuyệt đối không phải người ngoài, mà là một nhân vật có một mối liên hệ nào đó với Bộ và chắc chắn mối quan hệ ấy được thiết lập qua một kênh quan trọng và có ảnh hưởng lớn.
"Ngài thấy đấy, thưa ngài," tôi giải thích thêm, "đó cũng là một hình thức để bảo đảm an toàn. Có một niềm tin đã tồn tại từ lâu giữa những người bản xứ, rằng Saat Bhai không chỉ đang tồn tại, mà còn là một hội kín hùng mạnh với rất nhiều thành viên. Và hầu hết những người dân bản địa chúng tôi, nếu không ở trong tình trạng quá kích động, bao giờ cũng dừng lại cân nhắc cẩn thận trước khi ra tay giết kẻ nào nói rằng anh ta thuộc về một tổ chức cụ thể nào đó. Vì thế trong những tình huống nguy hiểm - giả sử có ai đó kề dao vào cổ ngài hay làm một việc gì đại loại thế - ngài có thể nói, “Tôi là con trai của Bùa phép," điều đó có nghĩa rằng có thể ngài là thành viên của tổ chức Saat Bhai, nhờ vậy may ra ngài còn có thể thở được".
"Tôi từng thuộc về nhiều môn phái tôn giáo khác nhau," Strickland nói, thở dài đầy nuối tiếc. "Các ông thần bà thánh ấy chắc cũng cảm thấy rằng tôi đang rời bỏ dần các tông phái với việc đi lang thang khắp chốn cùng nơi dưới nhiều vỏ bọc khác nhau, và tôi cũng được thần thánh chỉ dụ là phải rời bỏ các môn phái ấy(16). Hiện nay, tôi chỉ còn thuộc về Saat Bhai mà thôi, vì thế tôi hy vọng ông sẽ không tố cáo tôi".
"Anh bạn thân mến của tôi," người Na Uy nói và lặng lẽ cười theo một kiểu rất riêng, "trong chừng mực các buổi đại yến tiệc của cái hội gì gì đó của các anh không khuấy động thiên hạ bằng việc lấy máu người hiến tế cho các vị thần thì tôi hứa sẽ mang bí mật này của các anh xuống mồ".
"Ôi vậy thì tốt lắm," Strickland mừng rỡ reo lên. "Tốt hơn cả tôi nên đi đánh một bức điện báo cho Đại tá biết về chuyến đi an toàn của ông. Vào giờ này chắc người quản lý khách sạn đã chuẩn bị sẵn phòng cho ông rồi".
"Tốt lắm, chỉ còn một vấn đề nho nhỏ cần nghĩ đến mà thôi," người Na Uy nói, nhìn thẳng vào tôi. "Ông Mookerjee à, bằng những nỗ lực của mình ông đã phát hiện ra ít nhiều về những việc có liên quan đến tôi, nên tôi cảm thấy thật không phải, thậm chí có lẽ còn không khôn ngoan nữa, nếu không cho ông ấy biết đầy đủ những chuyện bí mật giũa chúng ta. Phải không Strickland?"
"Tất nhiên," Strickland đáp. "Ông Hurree đây là một người thận trọng và ông có thể hoàn toàn tin tưởng ông ấy trong việc giữ bí mật". Anh ta quay sang tôi với một nụ cười kẻ cả. "Này ỏng bạn Hurree, người đã tóm được ông chỉ vì ông tỏ ra thiếu khôn ngoan đến mức để cho sự tò mò trẻ con sai khiến, không ai khác chính là vị thám tử vĩ đại nhất thế giới, thám tử Sherlock Holmes".
"Anh làm tôi xấu hổ đấy, Strickland ạ," Holmes nói với giọng khẩn khoản.
Đúng lúc ấy, nghe vang lên một tiếng thét rùng rợn, kéo dài khắp các hành lang của khách sạn Taj Mahal.
Chú thích:
(1) Milton, Thiên đường đánh mất.
(2) Ticca-ghari: xe ngựa chở thuê có bốn bánh.
(3) Chalo: Đi thôi đi nào! (tiếng Hindu).
(4) Babuji: Babu là từ chỉ người bàn xứ có học làm việc cho chính quyền nhà nước, ji là hậu tố thêm vào khi nói chuyện với người đối diện tỏ ý kính trọng. Babuji có thể hiểu là thưa ông (tiếng Hindu).
(5) Jaldi: Nhanh lên (tiếng Hindu).
(6) sub rosa: (tiếng Latinh): nghĩa là sự kín đáo.
(7) Hai, rukho: họ, dừng lại.
(8) Nguyên văn paan: tương tự như trầu không ở ta, nhai chung với hạt cau, vôi. cùng một vài loại gia vị khác. Paan làm cho môi và răng có màu đỏ. Nhiều người Ấn thời đó có thói quen nhai paan.

Chương sau