Thiên tỏa - Chương 12

Thiên tỏa - Chương 12

Thất hận môn và cái xác khô

Ngày đăng
Tổng cộng 16 hồi
Đánh giá 9.3/10 với 16896 lượt xem

Trong lúc mở khóa, từ đầu tới cuối tôi chỉ đứng trong phạm vi phiến đá thứ năm mươi lăm, thỉnh thoảng quay đầu lại vẫn nhìn thấy Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đứng từ phía đằng xa, tay cầm chiếc gương Dạ Minh lắc qua lắc lại, chiếu ra chùm tia sáng màu xanh lấp lánh. Hơn nữa, bốn phía xung quanh đều là một màu đen kịt, không có đến một tia sáng khác dù là nhỏ nhất, hai người họ không thể vì cố tình trêu tôi mà gập chiếc gương Dạ Minh lại được.
Vẫn không thấy, thực sự không thấy bóng dáng của hai người họ đâu! Tôi càng nghĩ càng thấy sợ hãi, liên tục quay sang tứ phía với hi vọng tìm thấy họ, tôi hét lên trong tuyệt vọng:
- Lão Ngũ ơi… chị Giai Tuệ ơi… Lão Ngũ… chị Giai Tuệ…
Nhưng trước mắt tôi chỉ là không gian im lặng như tờ và tiếng thét xé tan màn đêm của tôi, thỉnh thoảng có tiếng chuyển động khe khẽ vọng lại từ đằng xa.
Tôi cứ hét cho tới khi lạc cả giọng, nhưng bốn phía xung quanh đều không có bất cứ một tiếng phản hồi nào, chắc chắn hai người họ đã bị mất tích. Vậy có nghĩa là sau khi mở được phần Trung cung của Thiên Cung Cách sát trận, tôi đã khiến cho các phần khác của cỗ máy tự động biến mất, không biết nó lợi hại tới mức nào mà lại có thể khiến cho họ biến mất trong nháy mắt.
Thế nhưng cũng thật khó hiểu, cho dù có xảy ra chuyện gì thì họ cũng phải kêu lên một tiếng để báo hiệu mới phải, tại sao tôi lại không nghe thấy gì? Lẽ nào do quá tập trung tinh thần vào mở khóa nên tôi đã không nghe thấy tiếng họ gọi?
Nghĩ đi nghĩ lại, tôi vẫn không thể hiểu nổi vì sao họ lại biến mất như thế, cảm giác sợ hãi một lần nữa lại khỏa lấp tâm hồn non nớt. Một đứa con gái mới lớn như tôi thì biết làm gì trong căn hầm rộng lớn thế này đây?
Cùng lúc đó, các thanh kim loại cũng đã dừng chuyển động, những khe rãnh cũng dần khép kín. Để định hướng, tôi phải bò sát người xuống sàn, lần theo đường khe nối trong bóng tối mịt mùng để tìm tới nơi hai người mất tích.
Tôi đếm nhẩm trong đầu số lượng những phiến đá mình đã bò qua và phải luôn đảm bảo rằng mình đang đi đúng hướng. Khi lần được tới nơi, tôi đưa tay mò khắp nhưng vẫn không thấy gì cả. Trong nỗi kinh hoàng, tôi đã quờ quạng mọi chỗ có thể, thì bỗng nhiên chạm phải một vật gì đó mềm mềm. Tôi vội vàng giật lấy, dùng cả hai tay mân mê để xem đó là gì, hình như nó là đôi găng tay chuyên dụng của cảnh sát mà chị Giai Tuệ đã từng dùng.
Tôi đoán rằng trong lúc bất ngờ gặp sự cố, chị Giai Tuệ đã nhanh trí ném lại đôi găng tay này với mục đích đánh dấu vị trí để tôi phát hiện nơi hai người mất tích.
Căn hầm này không thấy đỉnh, chắc chắn hai người không thể bay lên đó, và cũng không thể nào có chuyện hắc ưng quắp họ đi mà tôi không mảy may nhận thấy. Vậy thì chỉ có thể là do mặt sàn đá, chắc hẳn phiến đá đã lật lại khiến hai người họ rơi xuống dưới.
Nghĩ vậy, tôi bèn lấy tay sờ từng phiến đá xung quanh, nhưng cũng chẳng phát hiện ra dấu hiệu gì bất thường. Suy nghĩ một lúc, tôi mới quyết định lấy chiếc kim móc ra cào lên phiến đá để xem liệu có tìm thấy manh mối nào không.
Tiếng ken két vang lên khi tôi cào lên nền đá giống như tiếng lũ chuột cống đang nghiến răng kèn kẹt, thêm vào đó là tiếng chuyển động của cỗ máy từ đằng xa vọng tới; những tạp âm này khiến tôi cảm thấy rất khó chịu, bất an. Lão Ngũ, chị Giai Tuệ, hai người đang ở đâu? Tôi cố nén dòng nước mắt đang chực chảy ra, tay cào lên mặt sàn mỗi lúc một nhanh.
Cuối cùng, tôi cũng phát hiện ra điều đáng ngờ trên một phiến đá. Âm thanh ở đó khá lạ lẫm, nhiệt độ bề mặt cũng mát hơn so với những phiến đá khác. Xem ra đây chính là thủ phạm, nếu như tôi đoán không sai, thì hai người họ đã bị rơi xuống phía dưới phiến đá này.
Tôi liền áp sát tai xuống mặt sàn để lắng nghe những âm thanh phía dưới, đó là những tiếng vang lớn, tạm thời tôi không thể biết rốt cuộc đó là sự chuyển động của vật gì, Tôi chuyển sang những phiến đá bên cạnh, mặc dù vẫn là tiếng vang đó, nhưng yếu hơn, rất có thể những âm thanh đó là của cùng một vật.
Khi đã xác định đúng vị trí, tôi hạ quyết tâm tìm cho ra điểm mấu chốt, có như thế mới biết tình hình hiện tại của Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, xem họ còn sống hay… Nghĩ tới đó, bên tai tôi như văng vẳng đâu đây câu “Hay đấy!” quen thuộc của Lão Ngũ; và cả đôi mắt trong sáng, luôn lo lắng cho tôi của chị Giai Tuệ.
Tôi thấy sống mũi cay cay, nước mắt lại chực trào ra, nhưng nghĩ đến lời Lão Ngũ luôn chê tôi là đứa con nít chỉ biết khóc nhè; tôi đành cắn răng cố nén những giọt nước mắt vào trong, và cũng tự hứa với lòng mình rằng: Lão Ngũ. Chị Giai Tuệ, hai người cứ yên tâm, cháu nhất định sẽ tìm ra hai người.
Do đã có kinh nghiệm trong lúc khống chế những thanh kim loại lửa, nên tôi đã hiểu được phần nào cấu tạo và cơ chế hoạt động của những phiến đá này. Tôi lập tức lôi từ trong balô ra một miếng kim loại dẹt và mỏng, cố gắng dùng hết sức ấn mạnh nó vào đường khe nhỏ. Thế nhưng dù cố đến mức các đầu ngón tay trở nên tê cứng, thì phiến đá vẫn không dịch chuyển và không hề có một dấu hiệu nào cho thấy nó sẽ chuyển động. Tôi vẫn không nhụt chí, tiếp tục đổi sang các dụng cụ khác, nhưng vẫn không khả quan gì hơn.
Loay hoay một hồi lâu, tôi bắt đầu cuống lên, cả người đầm đìa mồ hôi, liền ngồi phịch xuống phiến đá bên cạnh thở dốc. Trong lúc đang nghĩ ngợi lung tung, tôi bỗng cảm thấy phiến đá dưới mông rung nhẹ, chưa kịp phản ứng thì bỗng nhiên thấy phía dưới trống không, cả người tôi chao đảo rớt xuống.
- Ôi mẹ ơi!
Tôi hét lên thật lớn, trong lòng lập tức hiểu ra mình đã bị phiến đá hất xuống dưới. Bản năng mách bảo tôi ôm chặt lấy hai gối, người co tròn lại, để tránh cho đầu và tay chân bị thương.
Cả người tôi lao xuống không phanh, bên tai chỉ còn tiếng ù ù của gió, lòng thầm sợ hãi và lo lắng, nếu như rơi xuống mặt sàn đá thì thân này chắc chắn sẽ nát như tương. Tôi cố gắng ngó xuống dưới, hình như có luồng ánh sáng rọi ngược lên nhưng chưa kịp nhận ra cái gì thì tôi đã cảm thấy phía dưới lưng mình mềm mềm, giống như chạm phải vật gì đó giống như bông xốp vậy. Bốn bề tối như bưng, lập tức một cảm giác bí bức vây lấy tôi khiến hơi thở cũng trở nên nặng nề, khó chịu hơn.
Cảm giác như mình mỗi lúc một lún sâu hơn, rồi ngay sau đó, phía dưới lưng lập tức truyền tới một lực đẩy rất lớn, khiến cả người tôi lại bật thẳng lên không trung. Nó rất giống với trò chơi bật bông hồi nhỏ ông nội hay cho tôi chơi.
Cảm thấy không nguy hiểm lắm nên trong lòng tôi đỡ lo đi phần nào. Cả cơ thể bật cao khoảng chừng hơn chục mét, lực đẩy yếu dần đi, rồi lại bắt đầu quá trình rơi tự do. Trên không trung tôi quay đầu nhìn xuống, những gì nhìn thấy khiến tôi kinh hãi suýt tè cả ra quần.
Phía dưới vẫn là một khoảng trống bất thường như trong lòng động, trên tường treo dày đặc những ngọn đèn dầu, mặc dù lửa không lớn lắm, nhưng do chúng có cụm lại với nhau nên chẳng trách ở dưới đó sáng như thế. Dưới mặt sàn là đống bầy nhầy màu đen rất lớn, kết dính với nhau, thỉnh thoảng lại điểm xuyết bằng những đốm lớn màu trắng, trông như những con mắt trắng dã.
Thoáng một cái, cả người tôi rơi xuống đống bầy nhầy đó, rồi lại bật lên, lần này không cao lắm, cứ lặp đi lặp lại như vậy thêm ba bốn lần thì dừng hẳn. Tôi nằm bất động trên đống bầy nhầy đen đúa đó, dưới mông hơi man mát, không biết có phải do tôi sợ quá mà tè ra không. Trong lòng bỗng dưng cảm thấy hỗn loạn vô cùng, rốt cuộc đây là đâu, những cây đèn dầu kia do ai thắp lên?
Tôi đưa mắt thăm dò xung quanh thì chợt phát hiện ra, trên bốn bức tường động mọc ra vô số thạch nhũ khổng lồ, ở đó đặt rất nhiều những cây đèn dầu với hình dạng cổ xưa, và gió… Tôi cũng không biết những luồng gió này từ đâu thổi đến, tuy bị gió tạt song những cây đèn dầu không hề bị thổi tắt. Không nén được tò mò tôi chậm rãi bò dậy.
Bỗng nhiên, bên tai tôi văng vẳng có tiếng ai đó gọi:
- Lan Lan, Lan Lan!
Tiếng gọi ban đầu rất xa xăm, cảm giác như từ một nơi cách xa ngàn dặm vọng tới, nhưng càng lúc tiếng vang đó lại càng rõ hơn.
Chị Giai Tuệ?!
Đó chính là giọng của chị Giai Tuệ, hình như còn lẫn cả giọng của Lão Ngũ nữa. Tôi sung sướng đến phát khóc, lập tức rướn cổ về phía tiếng gọi kia đáp lời. Cách nơi tôi đứng chừng hơn năm mươi mét, có hai bóng người mờ mờ đang ngồi trên một tảng thạch nhũ, đó chính là Lão Ngũ và chị Giai Tuệ! Chị Giai Tuệ vội cầm một cây đèn dầu lên, không ngừng vẫy tay ra hiệu, kèm theo đó là tiếng gọi vội vã của Lão Ngũ.
- Lan Lan, nhảy xuống phía dưới, đi men theo đường khe lại đây.
Khe nào mới được chứ? Tôi chưa kịp phản ứng thì toàn thân lại rung lên một lần nữa, phần “đệm” dưới chân bất ngờ biến mất, cả người tôi bỗng tụt mạnh xuống một cái hố, nửa người dưới rơi tùm xuống nước.
Tôi hốt hoảng giơ tay ra bám lấy miệng hố thì thấy mềm mềm như miếng thịt sống, móng tay tôi cắm chặt vào nó, hệt như đang tóm phải một cái bánh bao rất lớn. tay vẫn bám chặt, tôi ngoảnh đầu nhìn xuống. Thì ra những đốm trắng mà lúc nãy tôi nhìn thấy từ trên cao xuống chính là những cái hố sâu, phần miệng hố trơn nhẵn còn đáy thì sáng lấp lánh, phản chiếu những tia sáng lung linh trong trẻo, bên trong hồ chứa đầy dung dịch như lòng trắng trứng gà.
Cha mẹ ơi, đây là cái gì thế này? Tôi lập tức nhớ đến lời dặn của Lão Ngũ, liền cúi xuống nhìn lại thật kĩ, thì ra bên thành hố, giữa những tảng mềm mềm kia là một khe hở rất hẹp. Không lưỡng lự, tôi cúi người xuống, dùng tay vạch khe hở để chui qua. Lăn lộn trong cái đống bùng nhùng đó một lúc thì tôi rơi tiếp xuống dưới, lớp nhầy nhụa, bê bết vừa rồi dính đầy lên mặt lên đầu. Rất nhanh sau đó, tôi đứng thẳng dậy, cảm thấy dễ thở hơn và trong lòng yên tâm được phần nào. Trong lúc chui qua khe hở kia, bốn phía xung quanh đen kịt, một mùi tanh nồng bốc lên khiến tôi thấy lợm giọng buồn nôn.
Mặc dù trong lòng tôi rất lo sợ, nhưng may nhờ có tiếng gọi và sự hướng dẫn của Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, tôi mới biết đường mà chui qua khe hở thoát thân. Vừa mới chui đầu qua, Lão Ngũ đã hối hả lấy tay phủi lớp bầy nhầy đang dính đầy trên đầu tóc và quần áo tôi, rồi cốc mạnh vào trán tôi, sung sướng nói:
- Con nhóc này, vậy là mi cũng xuống dưới này rồi.
Chị Giai Tuệ vội lao tới ôm chầm lấy tôi.
- May quá, may quá, chị cứ tưởng là đã lạc mất em. – Nói xong, chị lôi ra một chiếc khăn tay lau sạch mặt mũi, đầu tóc cho tôi.
Gặp lại hai người, tôi mừng rơi nước mắt, nắm chặt lấy tay họ, đang định nói gì đó thì chợt thấy trên người Lão Ngũ giờ chỉ còn lại một chiếc quần, để lộ ra hai cẳng chân gầy gò, đen đúa.
Tôi ngại ngùng hỏi lão sao lại cởi quần dài ra? Lão Ngũ liền chửi thề một câu, rồi kể lúc thấy cái thanh kim loại tự động kéo lên, hai người họ đã nghĩ mở khóa thành công nên định chạy thẳng tới chỗ tôi đừng, ai ngờ phiến đá dưới chân lại là phiến đá lật, nên họ bị rơi thẳng xuống dưới này. May mà phía dưới này mọc toàn nấm đá, nếu không thì đã tan xương nát thịt rồi.
Lão Ngũ nói với tôi, lớp nhầy nhụa ban nãy chính là nấm đá, chúng là một loại nấm khuẩn dưới mặt đất cực kì quý hiếm, để chúng mọc dài được như thế thì chắc cũng phải mất hàng trăm năm tuổi. Còn những đốm trắng phía trên bề mặt là những lỗ thoát khí, nó mở ra khép vào theo một chu kì nhất định. Cái số ta cũng thật chó chết, rơi đúng vào lúc nó đang khép lỗ thoát khí, vậy là nửa người dưới bị kẹp chặt, làm tuột mất cả chiếc quần dài.
Nói đến đây, lão vỗ mạnh vào đùi, khuôn mặt đầy vẻ ấm ức:
- Lần này đúng là lỗ to rồi, không những bị mất quần đùi, mà đến cả gương Dạ Minh, chuỗi hạt Ô Kim và mấy thứ bảo bối lúc trước tìm thấy giờ cũng mất hết rồi, mẹ kiếp! Nếu biết trước là rơi xuống lũ nấm đá này thì ta đã không giấu chúng ở trên người, bỏ mẹ trong balô có phải tốt hơn không.
Nghe thấy vậy, tôi cũng tiếc đứt ruột thay lão, nhìn vẻ mặt đau khổ của Lão Ngũ, tôi liền an ủi:
- Lão Ngũ, cháu vẫn còn một số bảo bối không dùng đến đây, cháu cho lão hết đấy.
Lão Ngũ đồng ý ngay tắp lự, nhưng đang định đưa tay ra nhận lấy thì mặt lão bỗng dưng đỏ ửng lên, ngượng ngùng nói:
- Cái này… cái này… ta làm sao lại đi giành đồ với một đứa trẻ chứ?
Tôi cười khì khì, nói rằng mình vốn dĩ không thích chúng, quay đầu sang thì thấy chị Giai Tuệ đang cầm trên tay chiếc đèn dầu rất cổ, liền vội hỏi chuyện gì xảy ra.
Lão Ngũ hào hứng vỗ lên thành tường:
- Theo như ta quan sát thì đây chính là một cái động tự nhiên, thế nhưng trên mỗi tảng thạch nhũ lại đặt những chiếc đèn dầu. Cả địa cung chỗ nào cũng tối đen như mực, duy chỉ nơi này mới có ánh sáng lung linh, có lẽ đích đến đã ngay gần chúng ta, và cái bọn đầu trọc tết tóc đuôi sam kia chắc chắn đang giấu loại bảo bối gì đó ở đây.
Nói rồi, lão di di bàn chân xuống mặt sàn. Ánh mắt tôi chợt dừng tại một cái lỗ nhỏ bằng đầu ngón tay trên tảng thạch nhũ, rõ ràng đó là do con người tạo ra, từ phía trong lỗ đang phun ra một thứ dung dịch màu xanh nhạt, chảy men theo tảng thạch nhũ nhỏ từng giọt xuống dưới. Cơn tò mò trỗi dậy, tôi liền ngồi xuống lấy tay quệt một chút dung dịch đó lên xem, cảm giác sền sệt dinh dính như nhớt.
Lão Ngũ nói ngay đây chính là loại dầu Hà Tử mà ngày trước những người Nữ Chân đã dùng làm chất đốt. Nó được luyện từ hỗn hợp mỡ và mật gấu đen vùng Đông Bắc, với đặc điểm rất đượm lửa, chỉ cần một giọt Hà Tử là có thể cháy sáng được cả ngày. Vừa xong lão và chị Giai Tuệ đã gỡ một chiếc đèn dầu xuống, dùng vải làm bấc, mặc dù chiếc gương Dạ Minh đã mất, nhưng dù sao cũng vẫn còn thứ này để ra khỏi đây.
Loại dầu Hà Tử công năng đặc tính thế nào tôi còn hiểu, nhưng còn người Nữ Chân Nữ Tay kia thì chẳng nghe thấy bao giờ. Chị Giai Tuệ liền giải thích cho tôi tộc Nữ Chân là tổ tiên của dân tộc Mãn, ngày trước họ cư trú ở vùng Cát Lâm và Hắc Long Giang, cuộc sống chủ yếu dựa vào săn bắn, hái lượm trong rừng sâu. Sau khi hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích thống nhất từng vùng lãnh thổ, lật đổ nhà Minh đã xây dựng đế chế Hậu Kim, khởi nguồn cho triều Đại Thanh sau này.
Tôi gật gù ra vẻ hiểu biết:
- Em hiểu rồi, vậy tộc người Nữ Chân chính là thủy tổ của chị đúng không?
Chị Giai Tuệ mỉm cười, quay đầu nhìn sang bốn phía, giọng trầm hẳn xuống:
- Đúng thế, có lẽ đây chính là điểm cuối cùng trong hệ thống địa cung mà hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã xây dựng.
Nghe chị nói vậy, tôi reo lên mừng rỡ:
- Vậy thì bảo bối chắc chắn chôn ở đây rồi.
Lão Ngũ cũng cười khoái chí như trẻ con, chỉ tay lên đỉnh đầu, tự đắc nói thêm:
- Nhóc con, nhìn thấy gì chưa, trên đó có một cửa ra đấy. Ta và con nhỏ Giai Tuệ lúc nãy cũng đã tính rồi, chắc chắn đó là nơi cất giấu bảo bối, giờ mi cũng đến rồi, chúng ta cứ trèo lên đó xem sao, thành công hay thất bại còn tùy thuộc vào vận số nữa đấy.
Tôi ngẩng đầu nhìn theo hướng tay lão đang chỉ. Cách chỗ chúng tôi đứng chừng bốn mươi mét hơi chếch về phía bên trái là một bề mặt khá bằng phẳng và nhẵn nhụi, hình như đó là một cánh cửa. Nó ở chính giữa bốn tảng thạch nhũ, lại được những chiếc đèn dầu rọi sáng nên có thể nhìn thấy rất rõ.
Nhìn thấy cửa ải cuối cùng đang ở trước mắt, chúng tôi đều hào hứng vô cùng, hăng hái trèo lên những tảng thạch nhũ. Nhưng mọi việc lại không hề đơn giản như chúng tôi tưởng. Bề mặt của những tảng thạch nhũ này trơn như mỡ, cứ trèo lên được một đoạn thì lại bị trượt xuống, loay hoay cả buổi, chúng tôi mới lên được tới nơi, thật sự không hề dễ dàng gì.
Ở đó có một mỏm đá nhỏ rộng chừng hai ba mét nhô ra phía trước, ba chúng tôi cùng đứng chen chân ở đó. Tôi mệt đứt hơi, người đầm đìa mồ hôi, vừa vịn tường thở dốc vừa tiếp tục quan sát xung quanh.
Đó là một cánh cửa bằng sắt chi chít những vết hoen gỉ màu đỏ gạch, to chừng mặt bàn với với bốn cạnh vuông vức, gắn chìm vào trong vách đá. Tôi lập tức lấy chiếc kim móc trong balô ra, gõ liên tục phần mũi kia vào mặt cánh cửa, đồng thời áp sát tai chú ý lắng nghe từng tiếng động phát ra. Âm thanh phát ra khá nặng, điều đó chứng tỏ lớp gỉ sét bám trên cánh cửa này rất dày, tôi cạo nhẹ mũi kim lên lớp hoen gỉ, chúng rơi xuống lả tả như tàn tro.
Cạo một hồi lâu, cánh cửa trở nên sạch sẽ hơn, để lộ ra toàn bộ diện mạo của nó. Đó không phải là cánh cửa kim loại được đúc liền khối như tôi nghĩ ban đầu mà do bảy thanh kim loại màu đen ghép lại với nhau theo một kết cấu rất kì quặc, gồm năm thanh to nhỏ khác nhau ghép thành hình tam giác vuông, còn lại là một thanh hình vuông và một thanh hình bình hành được thiết kế ăn khớp với nhau. Đặc biệt là, trên mỗi thanh kim loại đều khắc một chữ “Hận” màu xanh đậm, chữ viết tay, rất rõ nét, không lồi lõm thô sơ, sờ tay lên đó thì có cảm giác phẳng lì không tì vết.
Cặp chân mày xinh đẹp của chị Giai Tuệ cau lại, chị thắc mắc:
- Nếu như đây là cửa ải cuối cùng dưới địa cung, thì những nét chữ này nhất định là mang một điều bí ẩn nào đó.
Nghe vậy, bỗng dưng tôi nhớ ra, cánh cửa trước mặt có thể chính là Thắt Xảo Thiên Tập môn mà ông nội đã từng có lần kể, nó được tạo thành dựa vào kết cấu Thất Xảo Bản. Thất Xảo Bản được bắt nguồn từ Yến chi đồ đời Tống và Điệp chí đồ thời Minh, cho tới tận đầu nhà Thanh, nó mới được hoàn thiện với bảy mảnh ghép biến hóa muôn hình vạn trạng, có thể sử dụng ở mọi loại trận địa. Sau đó có một bậc thầy chế tạo khóa đã dựa trên kết cấu của nó để chế tạo ra loại Thất Xảo Thiên Tập môn. Cửa chính là khóa, khóa chính là cửa, chính vì thế nên nó còn được gọi là khóa Thiên hợp, chủ yếu lấy thiên số “Thất” làm chủ đạo. Thất – số bảy là một con số có ý nghĩa rất đặc biệt, nó thường được dùng làm con số cơ bản cho các loại cửa cổ quái. Nếu tách nó ra làm “nhị - ngũ” là tượng trưng cho lưỡng nghi, ngũ hành; “tam – tứ” tượng trưng cho tam tài, tứ tượng; “nhất – lục” tượng trưng cho thái cực, lục hòa; nhưng khi cả bảy mảnh được ghép thành một khối thì lại mang ý nghĩa là thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Thế nhưng với chữ “Hận” thì hình như ông chưa từng nói đến.
Ngay sau khi nghe tôi giải thích, Lão Ngũ vỗ đùi đánh đét, giọng vô cùng hào hứng:
- Mẹ kiếp! Dùng khóa Thiên Tập để trấn áp thì chắc chắn bên trong có giấu báu vật rồi. Lan Lan, mi nhanh chóng động thủ đi.
Chị Giai Tuệ đưa tay chạm khẽ lên cánh cửa, nhìn chằm chằm vào bảy chữ “Hận” trên các mảnh ghép, rồi nói rằng những chữ này rất cổ quái, không thể nhận ra chúng được viết bằng cách nào, liệu đó có phải là một lời nguyền không?
Lão Ngũ đấm mạnh lên cánh cửa, tuyên bố:
- Nguyền rủa cái mẹ gì, chỉ có bọn chó đầu trọc sợ bị ăn trộm mất bảo bối, nên cố tình viết chữ lên đây để nhát mấy kẻ yếu bóng vía thôi. Lan Lan, mi giải quyết nó đi. Nếu có chuyện gì xảy ra ta sẽ chịu trách nhiệm, Lão Ngũ này mặt dày lắm, chẳng sợ bị thằng nào hận hết.
Thấy tôi gật đầu đồng ý, nên chị Giai Tuệ cũng không nói gì thêm, chỉ lôi từ trong balô ra một chiếc máy ảnh cỡ nhỏ, chụp tách tách vài kiểu, nói rằng để sau này làm tư liệu.
Do mỏm đá khá chật, nên tôi bảo Lão Ngũ và chị Giai Tuệ tụt xuống, để tôi nới rộng chỗ mở cánh cửa.
Tôi cố gắng đứng thật vững, điều chỉnh tư thế sao cho thoải mái nhất để quan sát kĩ càng hơn. Bảy mảnh ghép gồm có tất cả hai mươi ba đường biên, trừ sáu đường ẩn trong vách đá ra, thì trên cánh cửa vẫn còn mười bảy đường biên bên ngoài. Tôi lôi chiếc kính lúp chuyên dụng ra soi thì phát hiện trên đường biên xuất hiện dày đặc những móc khóa rất nhỏ ăn khớp với nhau. Tôi nghĩ ngợi hồi lâu rồi lôi ra một chiếc kim móc loại cực mảnh, chọc vào phía trong đường biên thăm dò, hóa ra mỗi đường lại được thiết kế một kiểu khác nhau: Có đường là vô số những bánh răng nhỏ khít chặt nhau, có đường là những trụ tròn, có đường lại được nối bằng những sợi dây nhỏ chập lại với nhau; nhưng tất thảy đều có một điểm chung là vô cùng cố quái, bắt buộc người mở khóa phải kết hợp sử dụng nhiều loại công cụ và kỹ thuật phức tạp thì mới có thể mở được.
Cảm giác đang đi đúng hướng, khiến tôi thấy không áp lực lắm, với kĩ năng mở khóa cấp Địa Kiện thì cánh cửa này không phải là quá khó, tuy nhiên chắc chắn là phải hi sinh vài sợi dây da lừa rồi.
Tôi từ từ chọc sâu mũi kim móc vào trong một đường biên, vừa lắc nhẹ chiếc kim, tôi đã nghe thấy một tiếng va chạm rất lớn, liền sau đó, chúng dội lên liên hồi, giống như tiếng kim loại va đập vào nhau nhưng được phóng to lên bội phần. Âm thanh đó mỗi lúc một lùi xa hơn, vọng khắp vách động. Tôi vô thức ngẩng đầu nhìn lên phía trên thì ngỡ ngàng phát hiện ra một điều, mỗi khi âm thanh lan đến đâu thì ngọn lửa đèn dầu lại chập chờn như bị gió tạt đến đó, nhưng sau đó lập tức trở lại trạng thái bình thường. Chỉ trong nháy mắt, những luồng âm thanh đó quay trở lại, tập hợp trước khóa Thiên Tập nghe răng rắc như những bánh răng đang kéo lê một đoạn xích.
Tôi lắc lắc đầu để dồn mọi sự tập trung vào đôi mắt, nhưng trong lòng thấy rất kì lạ, không biết rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra. Chỉ vài giây sau, từ vách đá đối diện với cánh cửa trồi ra bảy ống thép trắng, to gần bằng miệng cốc. Sau khi trồi ra chừng mười centimet, chúng bắt đầu xoay tít như nòng súng đang lên đạn, qua ánh sáng của ngọn đèn dầu, những ống thép phản chiếu ra một thứ ánh sáng vô cùng chói mắt.
Chứng kiến cảnh tượng trên, tôi thầm rủa mình vì đã bất cẩn chạm vào một chi tiết nguy hiểm nào đó. Bỗng nhiên, tôi nghe thấy có tiếng hét từ phía dưới, rồi một đoạn dây được quăng lên, cuối cùng tôi thấy mình nằm gọn trong lòng Lão Ngũ.
Chưa kịp định thần lại, thì tôi đã nhìn thấy từ miệng ống thép bắn mạnh ra những tia sáng trắng, lao thẳng vào cánh cửa kim loại, phát ra âm thanh đinh tai nhức óc như tiếng súng nổ.
Kèm với tiếng nổ là vô số những tia sáng dài chừng vài centimet liên tục bắn ra. Có vài tia rơi xuống người tôi, nhìn lại kĩ hơn thì hóa ra đó là những mũi tên rất nhỏ bằng kim loại màu trắng bạc, chỉ có điều chúng được bắn với tốc độ quá nhanh, khoảng cách lại quá ngắn nên có cảm giác như chúng chỉ là những tia sáng mảnh mai. Đầu mũi tên rất nhọn, phía đuôi gắn ba sợi lông vũ màu trắng rất nhẹ. Tôi ngẩng đầu nhìn lên cánh cửa, vẫn không hề để lại một dấu vết nào, thế cũng đủ biết cánh cửa đó cứng đến cỡ nào.
Những mũi tên màu trắng bạc vẫn tiếp tục bắn rào rào chừng nửa phút sau mới dừng hẳn. Tôi sợ đến mức dạ dày như cuộn lại, may mà Lão Ngũ nhanh tay kéo xuống, nếu không thì tôi sớm tiêu đời rồi.
Lão Ngũ cũng nhặt hai mũi tên lên ngắm nghía một lúc, lão nói với giọng vô cùng oán hận:
- Mẹ kiếp, là Thất Tinh Liên Châu Tiễn. Thật tàn ác! Hay đấy, hay đáy!
Lão quay sang giải thích với chúng tôi, bảy ống thép trắng kia được sắp xếp theo vị trí của chòm sao Bắc Đẩu, bên trong được thiết kế một lực đẩy rất mạnh, gọi là Thất Tinh Liên Châu Tiễn. Sức công phá của chúng còn mạnh gấp trăm gấp vạn lần so với năm lưỡi dao mà chúng tôi đã gặp ở cửa ải đầu tiên, chúng được đặt ở đây là nhằm để cản trở những người muốn vượt qua cánh cửa Thiên Tập kia.
Tôi nghĩ một lúc rồi đưa ra giải pháp:
- Lão Ngũ, hay là chúng ta trèo sang vách đối diện để phá bảy nòng Liên Châu Tiễn trước đã.
Lão Ngũ lập tức lắc đầu, giải thích:
- Đây được gọi là cỗ máy Tung hoành tiêu khí với đường dây dẫn chạy dài khắp vách động, mỗi một ống là một nòng bắn, chúng được nối liền tạo thành một chuỗi liên hợp với nhau. Chỉ cần phá bỏ một ống thì sẽ vô tình khởi động tất cả những ống còn lại, đến lúc đó mũi tên sẽ được bắn ra từ bốn phương tám hướng, đến một con ruồi cũng không thoát nổi đâu.
Tôi sợ rúm người nấp sau Lão Ngũ, lo lắng nhìn ngó khắp nơi vì lo những mũi tên đó lại xuất hiện lần nữa. Đến một người luôn điềm tĩnh như chị Giai Tuệ cũng cuống quýt hỏi:
- Lão Ngũ, phải làm sao bây giờ?
Lão Ngũ cúi đầu lẩm nhẩm một lúc, rồi vừa xoắn chòm râu thưa vừa khẳng khái nói:
- Nghìn vạn thiên binh còn không sợ nữa là ba tấc sắt này. Hiện giờ chỉ còn cửa ải cuối cùng này thôi, ta sẽ đứng phía sau Lan Lan để làm bia đỡ đạn vậy. Nếu như nó mở nhanh, thì tài nghệ của Lão Ngũ ta còn đường phát huy. Còn nếu như cả hai người cùng ngoẻo thì… ha ha… coi như chết có bạn có bè vậy
Chúng tôi bàn bạc kế hoạch một lúc lâu, mặc dù cả hai đều biết rõ làm vậy rất mạo hiểm nhưng thật sự không còn cách nào khác. Thế rồi tôi và Lão Ngũ cùng leo lên một phiến đá nhỏ, lưng áp lưng. Lão Ngũ cầm hai đầu mũi tên trong tay, hai chân choãi sang hai bên tìm thế đứng thật vững chãi, lão dứt khoát ra lệnh:
- Nhóc con, tiến hành đi!
Tôi không dám lưỡng lự thêm phút nào, lập tức bắt tay vào mở khóa. Kim móc vừa mới chọc vào đường biên thì Thất Tinh Liên Châu Tiễn đã bắt đầu khai hỏa, tôi nghe có tiếng leng keng không ngừng phát ra phía sau lưng, nhưng không hề thấy một mũi tên nào bắn trúng cánh cửa. Mặc dù không được tận mắt chứng kiến, nhưng tôi cảm nhận rất rõ toàn thân Lão Ngũ đang rung lên dữ dội, chắc hẳn lão đang cố gắng đánh bật cơn mưa mũi tên đang lao tới.
Tôi vô cùng lo lắng và sốt ruột nên đã quay đầu lại. Lão Ngũ đang không ngừng chống cự với hai mũi tên trong tay, hai chân cũng liên tục đá những mũi tên ở tầm thấp. Tốc độ chuyển động của tay và chân lão nhanh đến kinh người, khiến tôi có cảm giác như trên người lão mọc ra hàng nghìn tay chân, và cũng không thể đếm xuể có bao nhiêu mũi tên đang rào rào lao tới.
Tôi đang nhìn trân trân vào cảnh tượng kì diệu trên, thì bỗng nghe thấy chị Giai Tuệ vọng từ phía dưới:
- Lan Lan, tập trung vào mở khóa đi.
Tôi như choàng tỉnh khỏi cơn mộng mị, lập tức quay lại, dùng chiếc kim đang cắm một đầu vào lỗ sẹo trong lòng bàn tay cào nhẹ lên đường biên. Do kết cấu của từng đường biên không đồng nhất, nên tôi phải sử dụng các kĩ thuật khác nhau để gỡ từng bánh răng, cột trụ hay chùm dây xoắn bên dưới đường biên. Sau khi mở xong mười bảy đường biên bên ngoài, tôi ước lượng chiều dài của sáu đường biên nằm ẩn bên trong rồi dùng chiếc hộp tích lực chia sợi dây da lừa ra thành sáu đoạn, mỗi đoạn dài khoảng ba phân, sau đó dùng kim móc luồn từng đầu dây vào bên trong đường biên, xuyên qua chiếc ghim móc có nhiệm vụ níu chặt hai mảnh ghép lại với nhau, rồi lôi chúng ra ngoài. Cuối cùng mọi nỗ lực của tôi đã được đền đáp với mười hai đầu dây ngắn ngủi thò ra bên ngoài.
Thấy mọi thứ đã ổn, tôi nhanh tay buộc chúng lại với nhau, cứ hai đầu dây tạo thành một nút thắt, rồi dùng một sợi dây da lừa màu đen luồn qua sáu nút thắt kia, kéo nhẹ ra ngoài, đồng thời dùng một chiếc kim móc miết thật chặt. Chỉ vài giây sau, cả cánh cửa rung nhẹ, sáu chiếc ghim móc bên trong lách cách vài tiếng rồi rời nhau ra, bảy mảnh kim loại lần lượt thụt sâu vào vách đá.
Cùng lúc đó tôi nghe giọng Lão Ngũ hổn hển chửi thề phía sau lưng:
- Mẹ kiếp, cũng may mà con nhóc này giải quyết nhanh, nếu không ta cũng sắp ị ra quần tới nơi rồi. – Dứt lời, lão ngồi phịch xuống đất, dựa lưng vào chân tôi, thở không ra hơi vì kiệt sức.
Tôi vội vàng ngoái lại, bảy ống thép trên vách đá đối diện đang dần thụt vào trong, thoáng một cái đã biến mất dạng. Tôi cúi đầu nhìn xuống đáy, thật không thể đếm xuể những mũi tên màu bạc trắng đang nằm la liệt trên bề mặt nấm đá.
Lão Ngũ vẫn ngồi thõng ở dưới chân tôi, vừa lắc lắc cánh tay cho thư giãn gân cốt vừa hổn hển nói:
- Hay đấy, hay đấy! May mà lão già vẫn còn được việc, nếu không thì thành con nhím chết rồi.
Chị Giai Tuệ vội leo lên, ân cần bóp tay bóp chân Lão Ngũ.
Thấy Lão Ngũ không sao tôi cũng yên tâm phần nào, quay đầu nhìn lại cánh cửa Thiên Tập. Trong bảy mảnh kim loại, có một mảnh hình tam giác rất nhỏ nằm ở giữa, khi sáu thanh kia thụt vào trong thì nó lại lùi về phía bên trái. Tôi thử cầm trên tay, nặng trình trịch, thật không thể nhận ra nó được làm bằng chất liệu gì. Tôi vội nhấc nó ra cất vào balô làm kỉ niệm, coi như mình đã không uổng công đến đây.
Cánh cửa bỗng phát ra tiếng lộc cộc rồi từ phía trong phả ra một thứ mùi hôi thối rất khó ngửi khiến tôi nôn nao cả người. Một tay bịt mũi, một tay giơ chiếc đèn dầu lên để soi xét, tôi nheo mắt nhìn vào trong. Vừa ngó vào bên trong, tôi đã hốt hoảng lùi về phía sau, may mà không bị trượt chân rơi xuống. Thật không thể ngờ, bên trong đó lại có người.
Mặc dù ánh sáng của chiếc đèn dầu hơi lờ mờ, nhưng khoảng không gian bên trong cánh cửa cũng không lớn lắm, nên về cơ bản vẫn có thể nhìn thấy khá rõ. Dưới ánh sáng của ngọn đèn leo lắt, tôi thấy một người ngồi cách đó gần hai mét, đầu hơi nghiêng, đôi mắt mở to nhìn chằm chằm về phía tôi.
Đó là một khuôn mặt hết sức dữ tợn, mặt mũi nhăn nhúm, thế nhưng lại có vẻ như đang lo sợ điều gì đó. Tôi cũng không nhìn rõ lắm, nên “dữ tợn” thực ra chỉ là cảm nhận thoáng qua ban đầu. Chỉ trong khoảng vài mét mà bỗng nhiên xuất hiện một gương mặt với bộ dạng khó hiểu như vậy, thực tình cũng dễ khiến người ta sợ điếng người. Do quá bất ngờ, nên tôi hơi mất tự chủ, hoảng hốt bước lùi ra sau, nếu không nhanh tay bám vào tảng thạch nhũ bên cạnh thì chắc tôi cũng bỏ mạng ở đây. Tôi ngồi sụp xuống, chân tay run lẩy bẩy vì sợ hãi, mắt nhắm tịt nhưng những hình ảnh về khuôn mặt kia vẫn đeo bám tâm trí, khiến tôi mặt mày tái mét, không thốt nên lời.
Lão Ngũ thấy tôi co rúm người lại như con mèo ướt, thì vừa đẩy mông tôi vừa gắt gỏng:
- Nhóc con, sao thế? Nhanh chân trèo vào trong đi!
Tôi mếu máo cầu cứu lão:
- Lão… Lão… Ngũ ơi… bên… bên… trong… có… có… người!
- Mẹ kiếp!
Lão Ngũ chửi thề một câu rồi nhanh chóng bật dậy, chị Giai Tuệ cũng lập tức đừng lên theo, đỡ lấy ngọn đèn dầu đang trên tay tôi. Tôi ngồi phịch xuống dưới chân hai người, đầu gối nhũn ra như bún nhưng vẫn muốn tụt xuống càng nhanh càng tốt.
Một lúc sau, chị Giai Tuệ cúi xuống gọi tôi với giọng rất đỗi bình thường.
- Lan Lan à, đứng lên đi. Chỉ là một xác chết thôi mà.
Xác chết?! Nghe thấy vậy, nồng độ sợ hãi tụt đi quá nửa, tôi lồm cồm bò dậy, chui đầu qua khoảng trống giữa hai người, nhìn vào trong.
Cái xác ngồi duỗi thẳng hai chân, hai tay buông thõng xuống đất, đầu hơi nghiêng sang bên trái, mặc dù mắt mở to, nhưng chỉ còn lại hai cái hốc sâu hoắm, không còn con ngươi. Lớp da mặt thâm đen, nhăn nhúm như bị nhúng nước quá lâu nên sun cả lại, mồm miệng nhăn nheo rúm ró trông y hệt như con chuột già thành tinh. Trên người xác chết khoác một bộ lễ phục cổ xưa, mục nát đến mức không thể nhận ra màu gì nữa.
Tôi chăm chú nhìn một hồi lâu, nhưng vẫn cảm thấy không yên tâm lắm liền quay sang hỏi chị Giai Tuệ, nói nhỏ:
- Chị Giai Tuệ, có thật là xác người chết không?
Chị Giai Tuệ đang chăm chú quan sát từng chi tiết trên người xác chết, nghe thấy tôi hỏi liền khẽ gật đầu:
- Ừ, có lẽ đây là một cái xác khô, để chị xem thêm đã, em đứng yên đừng động đậy nhé. – Nói rồi chị dùng hai tay mò mẫm dò đường rồi bước vào căn hầm nhỏ phía sau cánh cửa Thiên Tập. Lão Ngũ cũng lặng lẽ đi sau chị.
Nhìn hai người họ cùng bước vào trong, tôi bạo gan nối gót Lão Ngũ tiến vào. Vào đến bên trong, mặt đối mặt, mới quan sát được kĩ hơn. Người này chắc là nam giới, nửa đầu cạo trắng hếu, chỉ có một túm tóc bé xíu tết gọn sau gáy. Bộ lễ phục trên người đã mục nát gần hết; trên vạt áo có thêu hình con rồng nhỏ đang giơ móng vuốt, hình như là màu vàng, phía trên cổ áo lấp lánh, có lẽ là được đính ngọc thì phải.
Lão Ngũ thốt lên câu gì đó trong miệng mà chỉ mình lão nghe thấy, rồi với tay gỡ miếng ngọc trên cổ áo xuống, đưa lên trước mặt ngắm một lúc rồi cười ha hả:
- Mẹ kiếp, là Hòa Điền Ngọc Tinh. Kiếm được nó thì coi như chuyến đi này đã đủ vốn.
Tôi nhăn mày vì nghĩ rằng lấy trộm đồ của người chết không hay ho chút nào.
Qua hình dáng và phục trang trên người xác chết, tôi đoàn có lẽ anh ta là người Mãn Thanh, thế nhưng kiểu tóc lại không giống lắm, nên cũng chưa rõ người này là ai và đã chết được bao nhiêu năm rồi. Rợn nhất là đôi mắt trợn trừng giống như bị chết oan, dưới ánh đèn lập lòe, chúng thực dễ khiến cho người ta nổi da gà.
Chúng tôi đi vòng ra phía sau cái xác khô thì phát hiện thấy sau lưng nó xếp đầy những chiếc hộp hình vuông, chiều dài mỗi cạnh khoảng ba phân, chúng đều có màu đỏ sậm. Thì ra do đằng sau có điểm tựa nên cái xác đó mới có thể ngồi thẳng như vậy.
Lão Ngũ lặng im nãy giờ, đột nhiên thốt lên một tiếng:
- Tuyệt! – Lão đưa chân đá đá cái xác khô, rồi quay sang nói với chúng tôi. – Mặc kệ nó là ai, bảo bối chắc chắn nằm ở đây.
Tôi thở dài, cúi đầu nhìn xuống đống hộp vuông màu đỏ, thì ra chúng là những chiếc khuôn được đúc bằng thép, bề mặt chi chít những vết hoen gỉ đỏ sậm, bốn cạnh là những đường cắt vuông vức, giống như được một con dao vô cùng sắc bén chia cắt thật ngọt. Nơi tiếp giáp giữa khuôn thép và mặt sàn không hề có đường biên, hình như chúng được đúc liền thành một khối.
Lão Ngũ ngồi xổm xuống, mò mẫm khắp nơi, đôi mắt hau háu nhìn ngó mọi ngóc ngách như thể phải lôi bằng được bảo bối ra ngoài. Trông lão lúc này giống hệt những đứa trẻ đang háo hức khám phá một thứ đồ chơi mới, tôi và chị Giai Tuệ cười thầm rồi đi quanh căn hầm một vòng.
Căn hầm không rộng lắm, chỉ khoảng mười mét vuông với bốn bức tường vuông vức. Tôi đưa tay sờ lên tường, lạnh và cứng, đích thị đây là một khối thép. Có một điều hết sức kì quặc là, trên bức tường có rất nhiều những đường vân nhỏ và dài, chúng nguệch ngoạc chồng chéo lên nhau, giống như bị vật gì đó cào mạnh. Ở góc tường phía trong cùng, chị Giai Tuệ nhặt lên một con dao vừa dài vừa mỏng, sắc bén vô cùng và dường như không có một vết hoen gỉ.
Chị Giai Tuệ búng búng tay lên lưỡi dao, thân dao hơi rung, vang lên chuỗi âm thanh xa vắng. Chị đưa lưỡi dao lên ướm thử những đưỡng vân trên tường, rồi chậm rãi nói:
- Hoàn toàn khớp với nhau, những vết đó chính là do lưỡi dao này tạo ra; chứng tỏ ở đây đã từng xảy ra trận xô xát, vậy cái xác khô kia…
Chị vừa nói đến đây, thì bỗng có tiếng Lão Ngũ gọi giật lại từ đằng sau:
- Lan Lan, lại đây, lại đây. Mẹ kiếp, cái hộp này thật đúng là cổ quái.
Chúng tôi lập tức chạy tới, ngồi xuống quan sát chiếc hộp Lão Ngũ vừa vỗ lên nắp vừa hổn hển nói:
- Mẹ kiếp, mở kiểu gì cũng không hề nhúc nhích. Bên trên lại đầy những vết chém, cứ như ma làm vậy.
Chị Giai Tuệ đưa ngọn đèn đến gần, qua quầng sáng mờ ảo, tôi nhìn thấy nắp chiếc hộp rất sạch sẽ, những vết hoen gỉ đã được Lão Ngũ cạo sạch, để lộ ra một màu sơn đen kịt, bên trên nắp là những đường gân vừa nông vừa mỏng phân bố đồng đều, giống như có người đã dùng một vật sắc nhọn để tạo ra những vết xước hình vòng cung có kích thước giống nhau. Ngón tay chậm rãi lần theo những vết xước, trực giác đã mách bảo tôi rằng, người xưa đã cố tình tạo ra chúng, chứ không phải sau này mới có. Tôi dùng mũi kim móc cào lên nắp hộp thám thính, âm thanh phát ra chứng tỏ bên trong hộp là rỗng.
Lão Ngũ miết ngón tay lên đường biên nối giữa chiếc hộp và mặt sàn, rồi nói với tôi:
- Chúng liền một khối đấy, nhóc con. Mi thử nhìn xem đây là loại khóa gì, nếu được thì nhanh chóng mở nó ra đi, ta sốt ruột quá rồi.
Tôi gật gật đầu, dùng mũi kim móc rà theo đường biên, một thứ âm thanh lạo xạo khác thường vang lên, giống như có hàng trăm con rết đang hành quân ngang qua, khiến tôi hoang mang cực độ.
Càng nghe tôi càng liên tưởng đển một điều gì đó rất quen thuộc, thế nhưng không tài nào hình dung ra được. Tôi lập tức quỳ gối, áp sát mặt nhìn thật kĩ những đường gân kì quái kia. Nhìn ngó một hồi lâu, quả nhiên tôi đã phát hiện ra điều bí mật bên trong đó.
Tôi nhẩm tính một lúc mới quay đầu nói với hai người:
- Ngày trước cháu đã từng nghe ông nội nhắc đến loại khóa này một lần, nó được gọi là Hoa Hạp, một vật chuyên dùng trong hoàng cung thời Minh Thanh để cất giữ những vật cơ mật. Hai người có nhìn thấy những đường vân này không, đó chính là những bông hoa được khắc chìm trên thân hộp và cũng là một loại khóa biến hình siêu tuyệt. Mỗi một bông hoa lại có tám cánh, và thủ thuật để mở nó gọi là Liệt Biện. Loại khóa này rất khó xử lí, bình thường là một hoa, cùng lắm thì cũng chỉ ba hoa, nhưng vừa xong cháu đếm có tới năm hoa, loại này vô cùng hiếm, xem ra đúng là bên trong cất giữ vật báu rồi.
Nghe tôi nói vậy, Lão Ngũ vuốt vuốt chòm râu, nét mặt trở nên nghiêm trọng, lão sốt ruột hỏi:
- Vậy thì nhanh chóng mở nó ra đi, còn chần chừ gì nữa, có khó không?
Tôi loay hoay sờ nắn chiếc hộp một lúc rồi nói:
- Cũng có thể, dù sao cháu cũng đã đạt tới cấp Địa kiện nên chắc là có khả năng mở được nó.
Lão Ngũ hoan hỉ như bắt được vàng, liền vội vàng nói:
- Vậy thì để ta giúp một tay.

Chương trước Chương sau