Bí ẩn vụ song sinh - Chương 12

Bí ẩn vụ song sinh - Chương 12

Bí ẩn vụ song sinh
Chương 12

Ngày đăng
Tổng cộng 17 hồi
Đánh giá 8.4/10 với 18427 lượt xem

Đúngng một giờ hai mươi, vị Sĩ quan đưa Carter Gilman tới tòa.
Mason nhìn về phía sau thấy khán giả đã chật ních phòng xử. Ông đưa tay lên đặt trên thành dựa lưng chiếc ghế Gilman ngồi, với một vẻ hết sức tự nhiên.
Mason hạ thấp giọng nói:
- Bây giờ ông kể lại cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện với đầy đủ sự thật.
- Tôi không thể chống lại người mà tôi có ý định che chở, Gilman nói.
Mason lắc đầu:
- Tôi không thể bảo vệ cho bất cứ ai nếu tôi không biết rõ sự việc và đầy đủ các yếu tố.
- Như vậy để rồi ông sẽ chống lại tôi?
- Không. Ông là thân chủ của tôi.
- Như vậy ông sẽ chống lại người tôi định che chở, vì ông sẽ phải làm vậy để cứu tôi.
Mason quan sát thật kỹ Gilman và nói:
- Có thể tôi sẽ phải làm vậy.
- Đó là điều tôi hết sức e ngại, Gilman nói. Tôi sẽ không nói với bất cứ ai điều tôi nhìn thấy.
- Được rồi, Mason nói. Như vậy là ông sẽ trắng mắt ra trong vòng vài phút nữa.
- Ý ông muốn nói gì vậy?
- Tôi muốn nói là cảnh sát đã bắt giam Hartley Elliott. Anh ta là người đã có mặt trong phòng ngủ nằm phía trên phòng ăn nhà ông và anh ta đã nhìn thấy Glamis chạy ra khỏi xưởng mộc.
Gilman như bị một cú sét đánh, ông ta trố mắt ngạc nhiên đầy vẻ sợ hãi.
- Anh ta... Anh ta nhìn thấy Glamis hả?
- Đúng vậy.
- Làm sao ông biết?
- Anh ta đã nói với tôi.
Gilman đưa mắt nhìn một cách xa xăm.
- Như vậy là anh ta đã nhìn qua khung cửa sổ đó.
- Nhưng có phải Glamis không? Mason hỏi.
- Phải. Đầu tiên, khi Vera Martel bước tới ga ra và vào phòng rửa ảnh thì tôi nhìn thấy bà ta. Lúc này tôi liền sai Muriell sang nhà bếp để tôi có thể xuống tìm hiểu. Trong mấy phút lặng lẽ trôi qua ấy... Tôi không hiểu đã có chuyện gì xảy ra. Tôi vẫn nhìn qua cửa sổ và bất chợt thấy từ trong xưởng Glamis chạy vụt ra.
- Tôi thấy Muriell như có vẻ chần chừ tới lui tại cửa nhà bếp. Tôi phải chờ tới lúc chắc chắn nó đã vào hẳn trong ấy để làm đồ ăn tôi mới...
Thư ký tòa gõ búa.
- Xin mời quý vị đứng dậy.
Tất cả mọi người trong phòng đều đứng dậy khi Chánh án Alvord bước vào và ngồi xuống ghế.
Cánh cửa hông phòng xử mở ra, Hamilton Burger bước vào phòng xử tới ngồi bên Eduardo Deering.
Chánh án Alvord có vẻ hơi ngạc nhiên.
- Xin lỗi, có phải đích thân ông Biện lý giải quyết vụ này không?
- Thưa quý tòa, vâng. Hamilton Burger nói và quay sang gật đầu một cách lạnh nhạt với Perry Mason.
- Chúng ta bắt đầu. Chánh án Alvord nói. Yêu cầu gọi nhân chứng kế tiếp.
Deering nói:
- Xin mời nhân chứng Hartley Elliott.
Hamilton Burger đứng dậy hướng về phía chánh án một cách trịnh trọng.
- Thưa quý tòa, ông ta nói, Hartley Elliott không những là nhân chứng buộc tội mà còn là nhân chứng cụ thể vì chúng tôi đã phải cho lệnh bắt ông ta. Ông Elliott không những đã tránh né trát đòi mà còn giấu giếm chính quyền những điều ông ta biết bằng cách trốn tại một nhà trọ với cái tên giả.
- Tòa sẽ cho phép đặt những câu hỏi dẫn dắt, Chánh án Alvord nói, nếu sự đối nghịch của nhân chứng tỏ ra rõ ràng. Tuy nhiên, ông có thể chất vấn nhân chứng theo cung cách bình thường cho tới khi thấy cần đến những câu hỏi dẫn dắt.
Cánh cửa phòng riêng dành cho nhân chứng mở ra, một Sĩ quan đưa Hartley Elliott vào phòng xử.
Chánh án Alvord nhìn Elliott một cách thắc mắc và nói:
- Hãy đưa tay phải lên tuyên thệ.
Elliott giơ cao tay phải tuyên thệ và ngồi xuống ghế nhân chứng.
- Tôi nhắc ông chú ý đến buổi sáng ngày Thứ Ba, mười ba tháng này. Hamilton Burger nói.
- Vâng. Elliott nói.
- Ông ở đâu vào buổi sáng đó?
- Tôi ở tại nhà của bị cáo Carter Gilman, số 6231 Đại lộ Vauxman.
- Ông có phải là khách trong nhà đó không?
- Vâng, phải.
- Ông tới nhà ấy vào lúc mấy giờ?
- Có phải ông muốn hỏi tôi đến đó lúc đầu tiên là vào mấy giờ phải không?
- Đúng như vậy.
- Tôi nhớ là vào khoảng hai hoặc hai giờ ba mươi sáng.
- Ông đã làm gì?
- Tôi đưa Glamis Barlow về nhà. Chúng tôi ngồi ngoài hàng hiên một lúc rồi cô mời tôi uống vài ly.
- Rồi sau đấy, Hamilton Burger hỏi.
- Tôi chào từ biệt cô ta và ra xe. Glamis đứng trước cửa chờ tôi đi. Tôi đã vô tính để quên chìa khóa công tắc trong ổ khóa. Bình điện xe bị yếu. Tôi cố đề máy nhưng không nổ.
- Rồi thì sao?
- Glamis đề nghị tôi ở lại nhà cô cho tới sáng, chờ trạm sửa xe thay tạm bình điện khác và đem bình điện của tôi đi sạc lại.
- Thế trạm sửa xe có mở cửa vào giờ ấy không?
- Khi tôi đề máy không nổ thì trạm không mở cửa. Họ sẽ mở cửa vào lúc tám giờ sáng.
- Thôi được. Hamilton Burger nói. Rồi thì ông làm gì?
- Tôi đi ngủ.
- Bây giờ, Hamilton Burger nói. Tôi muốn ông trình bày rõ trước tòa vị trí nơi ông ngủ. Ông có thể nói rõ về phòng ngủ ấy không?
- Nó nằm ở góc Tây Bắc căn nhà.
- Có phải về phía sau nhà không?
- Vâng, phải.
- Ông có quen thuộc với vị trí của phòng rửa ảnh của bà Gilman không?
- Vâng, có.
- Và ông có quen thuộc với xưởng mộc của bị cáo Carter Gilman không?
- Vâng, có.
- Tôi đưa ông xem bằng chứng B, tức là một sơ đồ các phòng trong căn nhà cũng như vị trí đường xe tới ga ra, xưởng mộc và phòng rửa ảnh. Ông có thể chỉ rõ phương hướng vị trí trên sơ đồ đó không?
- Vâng, tôi có thể.
- Ông có thể chỉ rõ vị trí phòng ngủ ở đâu không?
- Đó là phòng ngủ này, ở tầng hai.
- Có phải nó nằm ngay trên phòng ăn không?
- Vâng, phải.
- Bây giờ tôi xin hỏi ông một câu. Lần kế tiếp ông nhìn thấy Glamis Barlow là vào lúc nào, kể từ sau khi ông chúc cô ta ngủ ngon hồi quá nửa đêm về sáng ngày mười ba?
- Tôi... Tôi từ chối trả lời câu hỏi này.
- Yêu cầu cho biết lý do.
- Tôi chỉ đơn giản từ chối mà thôi.
Hamilton nhìn Chánh án Alvord.
Chánh án Alvord nói:
- Nhân chứng phải trả lời, ngoại trừ câu hỏi đó đưa đến sự buộc tội nhân chứng. Và trong trường hợp này, nhân chứng có thể từ chối với những lý do và tòa sẽ cho phép.
- Tôi chỉ đơn giản từ chối trả lời câu hỏi.
- Nếu như vậy, Chánh án Alvord nói. Ông sẽ bị kết tội là đã coi thường tòa.
- Tôi chỉ đơn giản từ chối trả lời câu hỏi. Tôi không thể nhận vì sự việc tôi nhìn thấy được dùng để kết án một người vô tội.
Hamilton Burger nhíu mày.
- Được rồi, Chánh án Alvord nói. Nếu ông từ chối trả lời, ông sẽ bị kết tội là coi thường tòa, và tôi xin báo để ông biết, ông Elliott, sẽ không phải là một bản án nhẹ. Vụ án này là một vụ án sát nhân, bằng chứng của ông có thể là bằng chứng chủ yếu.
- Tôi từ chối trả lời.
Hamilton Burger nói:
- Thưa quý tòa, tôi nghĩ rằng quý tòa nên dùng áp lực mạnh để bắt nhân chứng này phải trả lời. Ông ta là nhân chứng buộc tội, đã nắm các bằng chứng hầu như có thể giải quyết được vụ án này. Bằng chứng này không những là động cơ mà còn có thể chỉ dấu cho thấy sự cấu kết của hai kẻ tội phạm. Câu trả lời của nhân chứng này rất quan trọng. Thưa quý tòa, với thái độ của nhân chứng, và với sự kiện đã lánh mặt của ông ta, chúng tôi thấy rằng không có gì bảo đảm cho sự hiện diện của nhân chứng tại phiên xử của tòa thượng thẩm, ngoại trừ ông ta được giam giữ với tư cách là nhân chứng cụ thể. Và ngay cả như vậy cũng chưa chắc gì có được lời khai của ông ta nếu ông ta có thời giờ tính toán và được mách bảo do các đối tượng quan tâm.
- Do vậy chúng tôi thấy rằng cần phải ép buộc nhân chứng này trả lời câu hỏi tại đây và ngay bây giờ.
Chánh án Alvord nói:
- Ông Elliott, tôi xin báo cho ông biết, ngoại trừ ông trả lời câu hỏi, nếu không ông sẽ ngồi tù vị tội coi thường tòa và ông sẽ bị giam giữ tại nhà giam cho đến khi ông trả lời câu hỏi, hoặc cho tới lúc ông chứng tỏ được những lý do hợp pháp khiến ông không thể trả lời câu hỏi.
Hartley Elliott đứng dậy khoanh tay trước ngực nhìn chánh án một cách quả quyết và nói:
- Tôi từ chối trả lời câu hỏi.
Chánh án gật đầu với viên sĩ quan cảnh sát.
Viên sĩ quan cảnh sát tiến lên nắm lấy cánh tay của Elliott và đưa ra khỏi phòng xử.
Hamilton Burger quay sang nói, như thể đang bị kích động:
- Xin mời ông Paul Drake lên bục nhân chứng. Ông nói tiếp. Ông Paul Drake hiện đang có mặt ở đây, xin mời ông lên tuyên thệ.
Paul Drake quay sang nhìn Perry Mason với đôi mắt lo sợ.
- Mời ông Drake lên bục tuyên thệ, Chánh án Alvord nói.
Drake bước tới trước, tuyên thệ và ngồi lên ghế nhân chứng.
- Ông có phải là một thám tử tư không?
- Vâng, phải.
- Giấy phép hành nghề của ông ghi như vậy?
- Vâng.
- Và ông vẫn hành nghề liên tục đến ngày mười bốn tháng này phải không?
- Vâng, phải.
- Ông có quen biết với ông Hartley Elliott, nhân chứng vừa mới xong không?
- Tôi có biết ông ta.
- Tôi sẽ hỏi ông một câu hỏi. Vào ngày mười bốn tháng này, tại nhà của Hartley Elliott ở phòng 6-B tại chung cư Rossiter Apartments, đường Blendon trong thành phố này, ông và Perry Mason có nói chuyện với Hartley Elliott không? Hãy trả lời câu hỏi là có hay không?
Drake do dự nhưng cuối cùng cũng miễn cưỡng trả lời:
- Thưa, có.
- Tôi sẽ hỏi ông tiếp, Hamilton Burger nói. Tại cuộc nói chuyện đó có mặt của Perry Mason, với tư cách là luật sư của bị cáo, ông có hỏi Hartley Elliott về sự việc xảy ra vào buổi sáng ngày mười ba và lúc ấy Hartley Elliott đã trả lời. Vậy có phải Elliott nói rằng chính mắt mình thấy Glamis Barlow từ trong xưởng mộc chạy ra, phải không?
Mason đứng dậy phản đối.
- Khoan đã. Thưa quý tòa. Mason nói. Tôi phản đối vì lý do đưa tới lời khai "nghe nói".
- Nhưng đó là sự tố cáo, Hamilton Burger đáp.
- Đó không phải là sự tố cáo, Mason nói. Ngay cả nếu Hartley Elliott đã khai rằng ông ta không nhìn thấy Glamis Barlow vào sáng ngày mười ba thì câu hỏi của ông Biện lý vẫn cũng không hợp thức. Một Biện lý không thể tố cáo nhân chứng của chính Biện lý được.
- Có thể được, nếu Biện lý nhận ra điều bất ngờ trong câu trả lời của nhân chứng. Hamilton Burger phản bác lại.
- Thế ông có ý định tuyên bố là mình bị bất ngờ không? Mason hỏi. Thế Hartley Elliott đã không nói với ông rằng ông ta sẽ từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào liên quan đến sự việc xảy ra vào sáng ngày mười ba, trước khi ông đưa ông ta ra tòa làm nhân chứng hay sao?
Nét mặt của Hamilton Burger cho thấy là cú đánh có hiệu quả.
- Xin ông Biện lý cho biết có phải như vậy không? Mason hỏi.
- Đó là điều mơ hồ, Hamilton Burger trả lời.
- Không mơ hồ chút nào, Mason nói. Ông không thể tố cáo chính nhân chứng của mình, ngoại trừ ông có thể chứng tỏ rằng mình đã bị bất ngờ. Ông không thể tố cáo bất kỳ nhân chứng nào, ngoại trừ chứng minh được rằng lời khai của nhân chứng trái ngược với lời khai trước đó. Mặc dù vậy, sự tố cáo ấy cũng không được coi là bằng chứng.
- Tôi nghĩ rằng đó là luật, Chánh án Alvord nói.
Hamilton mặt đỏ bừng vì tức giận.
- Thưa quý tòa, ông ta nói. Bên công tố không muốn bị tấn công do các yếu tố về kỹ thuật. Chúng tôi có đủ lý do để tin rằng, Perry Mason và Paul Drake đã có cuộc nói chuyện với Hartley Elliott vào ngày mười bốn, vì vậy mà Hartley Elliott đã vội vã rời ngay khỏi chỗ ở trước khi cảnh sát tới.
- Elliott đã tới một nhà trọ, đăng ký dưới cái tên giả và tìm cách lánh mặt để tránh bị cảnh sát hỏi và nhận trát đòi ra tòa với tư cách là nhân chứng trong vụ án này.
- Thưa quý tòa, chúng tôi tin rằng Hartley Elliott thực sự đã trông thấy Glamis Barlow chạy ra từ xưởng mộc và ông ta đã nói với Paul Drake cùng Perry Mason biết điều ấy. Và theo suy luận hợp lý, sự tránh mặt cùa Elliott là do hậu quả cuộc nói chuyện của ông ta với hai người này.
Chánh án nhìn Perry Mason.
Perry Mason nói:
- Thưa quý tòa. Đó là lý luận của bên công tố. Nhưng tôi vẫn phản đối vì không thể chứng minh bất cứ sự kiện nào buộc tội bị cáo bằng những lời khai "nghe, nói"
- Phản đối được chấp thuận, Chánh án Alvord tuyên bố.
Hamilton Burger giận dữ nói:
- Thôi đủ rồi, ông Drake. Ông có thể bước xuống và xin nhớ rằng ông là một thám tử với giấy phép hành nghề do chúng tôi cấp.
- Thưa quý tòa, Mason nói. Tôi phản đối, công tố đã đe dọa nhân chứng.
Chánh án Alvord can thiệp:
- Thôi được. Công tố không được phép đe dọa nhân chứng. Tòa đã ra lệnh chấp thuận phản đối và nhân chứng đã thi hành. Nhân chứng sẽ vi phạm luật nếu tự ý phát biểu theo nhu cầu của Biện lý. Tòa cảnh cáo ông Biện lý. Yêu cầu gọi nhân chứng kế tiếp.
Hamilton Burger vẫn giận dữ tiếp:
- Thưa quý tòa. Nếu vậy tôi xin phép được gọi cô Glamis Barlow ra trước  bục nhân chứng.
Chánh án Alvord thắc mắc hỏi:
- Cô Barlow có mặt ở tòa à?
- Vâng. Tôi đã đưa trác mời, nhưng vì cô ta là nhân chứng cụ thể, tôi e ngại là cô ta có thể lánh mặt nên đã ra lệnh cho bắt giữ cô ta cách đây vài tiếng đồng hồ.
- Ông Biện lý, Chánh án Alvord nói. Tôi không rõ ý định ông muốn làm gì. Tòa này chỉ là tòa xét xử sơ khởi. Mục đích duy nhất của cuộc xét xử sơ khởi trước hết là xem có phải sự việc đã hình thành một tội phạm không, thứ hai là xem bị cáo có phạm tội đó không. Nhiệm vụ ở tòa này không giống như ở tòa Thượng thẩm.
- Thưa quý tòa, tôi hiểu điều này. Hamilton Burger nói một cách lạnh lùng.
- Được rồi, Chánh án Alvord nói. Nếu ông muốn gọi cô Barlow làm nhân chứng, xin cứ việc.
- Glamis Barlow. Hamilton Burger nói với giọng thật lớn không cần thiết.
Một vị sĩ quan mở cửa phòng nhân chứng đưa Glamis Barlow tới bục tuyên thệ.
- Khoan đã, Chánh án Alvord nói, sau khi nhân chứng đã tuyên thệ. Cô Barlow, cô đã được gọi đến với tư cách là nhân chứng của bên công tố.
- Tòa thấy có bổn phận phải cho cô biết rằng, lời khai của  cô có thể là bằng chứng liên đới trong vụ án mạng, hoặc có thể đưa cô tới vị trí bị cáo.
- Vì vậy, cô được phép không trả lời câu hỏi, nếu câu trả lời có thể là sự tự buộc tội. Công tố không có quyền gọi cô ra làm nhân chứng trong trường hợp cô là bị cáo. Tòa muốn cô hiểu vị trí của mình và khuyến cáo cô rằng, nếu cô muốn liên hệ với luật sư của cô bất cứ vào lúc nào thì tòa cũng dành cho cô cơ hội đó. Cô có hiểu không?
- Thưa quý tòa, tôi hiểu. Glamis Barlow nói.
Hamilton Burger hằm hằm nhìn nhân chứng.
- Cô có quen với Vera Martel, hoặc biết bà ta không?
- Tôi không biết Vera Martel. Glamis Barlow nói.
- Tôi nhắc cô chú ý tới buổi sáng ngày mười ba tháng này và hỏi cô rằng, từ lúc tám giờ đến tám giờ ba mươi cô có mặt tại nhà ở số 6231 Đại lộ Vauxman phải không?
- Vâng, phải.
- Giữa giờ ấy hoặc bất cứ vào lúc nào trong buổi sáng đó, cô có dịp nào tới xưởng mộc của bị cáo Carter Gilman không?
- Tôi phản đối, Perry Mason nói. Vì lý do vô thẩm quyền, không chính đáng và cũng không cụ thể. Đó là một câu hỏi dẫn dắt và đề nghị.
- Phản đối được chấp thuận, Chánh án Alvord nói.
- Thưa quý tòa, Hamilton Burger nói. Tôi có ý định là muốn hỏi nhân chứng xem cô ta có tới một căn phòng đặc biệt vào một giờ đặc biệt và tôi muốn có câu trả lời.
- Tôi muốn được trả lời câu hỏi ấy, Glamis Barlow hét lên. Tôi không có đến căn phòng đó.
Hamilton Burger nở một nụ cười tỏ vẻ chiến thắng.
- Cô Barlow, để khỏi bị lầm lẫn, ông ta nói, đây là sơ đồ bằng chứng B trong ấy có xưởng mộc, xin cô xác nhận lại vị trí đó rằng cô không hề bước chân tới đấy vào sáng ngày mười ba từ lúc tám giờ đến tám giờ ba mươi sáng.
- Thưa quý tòa, tôi phản đối. Mason nói. Vì lý do đó là cái bẫy nhằm tước đoạt quyền tự do hiến định của nhân chứng.
Glamis Barlow không đợi lệnh của Chánh án, cô liền bước tới bên sơ đồ đã được đính trên tấm bảng đen.
- Khoan đã, cô Barlow. Chánh án Alvord nói. Cô có hiểu câu hỏi của Biện lý không?
- Tôi hiểu rõ.
- Cô có ý định ký tên cô lên phần chủ định của sơ đồ đó không?
- Thưa có.
- Thế cô có ý thức được rằng nếu làm như vậy, vì cô đã tuyên thệ, nên nếu sự việc đúng là đã xảy ra thì cô là đồng phạm trong phiên xử tại tòa Thượng thẩm. Cô có ý thức được là chuyện gì sẽ xảy ra không? Chánh án Alvord hỏi.
- Tôi không cần biết là được xử ở tòa nào, Glamis Barlow nói. Tôi không hề tới gần căn phòng đó bất cứ vào thời gian nào trong buổi sáng ngày mười ba. Tôi đã ngủ đến gần mười giờ, và ngoại trừ lúc bước ra ngoài hành lang nói chuyện với Muriell Gilman, tôi không đi đâu trước lúc tối thiểu là chín giờ ba mươi. Rồi sau đấy, tôi mặc quần áo, ăn sáng và đi ra khỏi nhà. Tôi không hề đến gần căn xưởng đó.
- Thôi cũng được, Chánh án Alvord nói. Tòa đã khuyến cáo cho cô biết về quyền lợi hiến định của cô. Tòa không đồng ý phương thức làm việc này nhưng không có luật cấm đoán. Cô cứ việc ký tên, nếu cô muốn.
Glamis Barlow ký tên trên bảng sơ đồ.
- Xin mời chất vấn. Hamilton Burger quay sang Perry Mason nói một cách đắc thắng.
- Không có câu hỏi, Mason nói.
- Hãy gọi nhân chứng kế tiếp. Chánh án Alvord nói.
- Tôi muốn gọi Glenn McCoy, Hamilton Burger nói.
McCoy là một người đàn ông khá cao, ngoài năm mươi tuổi, bước lên bục nhân chứng, tuyên thệ và ngồi xuống ghế.
- Ông McCoy, ông cư ngụ ở đâu? Deering hỏi trong khi Hamilton Burger ngồi tại bàn đang bận hý hoáy viết trên tập giấy.
- Nevada.
- Ngày mười ba tháng này, ông cư ngụ ở đâu?
- Las Vegas, Nevada.
- Nghề nghiệp của ông là gì?
- Chia bài.
- Ông có quen với Glamis Barlow không?
- Tôi có nhìn thấy cô ta.
- Ông gặp bao nhiêu lần?
- Tôi không nhớ rõ, nhưng rất nhiều lần.
- Ông gặp cô ta ở đâu?
- Ở tại nơi tôi làm việc.
- Ông có gặp cô ta vào chiều ngày mười ba tháng này không?
- Tôi có gặp.
- Ở đâu?
- Khoan đã, Mason nói. Thưa quý tòa, tôi phản đối vì lý do vô thẩm quyền, không chính đáng và cũng không cụ thể.
- Tôi đang chuẩn bị kết hợp các yếu tố, Deering nói.
- Như vậy lý do đó không đủ, Mason nói. Bây giờ quý vị đang cố gắng chứng tỏ rằng Glamis Barlow là đồng phạm với Carter Gilman. Tôi là luật sư đại diện cho Carter Gilman, tôi không đại diện cho Glamis Barlow, và tôi không sẵn sàng để chất vấn bất kỳ nhân chứng nào khai những điều đẩy Glamis Barlow liên quan tới tội phạm.
- Tôi cũng nghĩ như vậy, Chánh án Alvord nói.
- Khoan đã, Hamilton Burger nói và đứng phắt dậy. Trước khi tòa ra lệnh, tôi muốn phát biểu luận điểm của bên Công tố là Carter Gilman đã giết Vera Martel, ông ta đã lấy mẫu các chìa khóa của nạn nhân, làm các chìa giả giao cho Glamis Barlow và cô ta đã đi Las Vegas, Nevada vào chiều ngày mười ba để dùng các chìa khóa đó mở cửa văn phòng của Vera Martel tại Las Vegas với mục đích là tìm kiếm các tài liệu buộc tội.
- Buộc tội ai? Chánh án Alvord hỏi.
- Buộc tội cả hai: Glamis Barlow và Carter Gilman, Burger nói.
- Thưa quý tòa, Mason nói. Tôi nghĩ rằng, đó là điều phỏng đoán lạc đề của Biện lý, bởi vì nếu Glamis Barlow vào trong văn phòng ấy với mục đích là lấy tài liệu có thể buộc tội cô ta thì đó là thuộc một vụ án khác không ăn nhập gì với vụ này.
- Nhưng nếu cô ta sử dụng các chìa khóa do Carter Gilman trao cho thì đó là một sự đồng lõa, Hamilton Burger nói. Và ngoài ra, để chứng minh cho sự đồng lõa, chúng tôi sẽ đưa ra các dấu tay của bị cáo Carter Gilman đã được tìm thấy ở văn phòng của Vera Martel tại Las Vegas. Cả hai văn phòng của Vera Martel ở Los Angeles và Las Vegas đều bị lục soát tan hoang để tìm kiếm tài liệu.
Chánh án Alvord hầu như bị những lời nói của Hamilton Burger gây ấn tượng.
- Ông Biện lý có thể cho biết những dấu tay đó có từ lúc nào không? Mason hỏi. Ông có thể chứng minh rằng những dấu tay đó đã không xuất hiện trước khi Vera Martel chết được chăng?
- Thời gian không có tính cách cụ thể, Burger nói.
Ông Chánh án Alvord suy nghĩ một chút rồi chậm chạp gật đầu.
- Ông Biện lý, trong một văn phòng công cộng thì các dấu tay không nhất thiết là bằng chứng buộc tội, ngoại trừ chứng minh được là các dấu tay ấy xuất hiện vào thời điểm mà tính chất công cộng được loại trừ, hoặc chứng minh được là nó liên hệ trực tiếp tới tội phạm.
- Nhưng điều đó không phải là trường hợp của một người đã để lại các dấu tay và chính người ấy đã ôm xác chết của nạn nhân giấu vào xe của mình, Hamilton Burger nói. Tôi biết những điều tôi làm, và tôi muốn trình bày vấn đề này "riêng trước tòa". Tôi muốn có những lời khai của nhân chứng này.
- Cũng được, Chánh án Alvord nói. Tuy nhiên, tôi muốn nghe lập luận của ông Biện lý "riêng trước tòa"
- Thưa quý tòa, Hamilton Burger nói. Chúng tôi sẽ chứng minh rằng nhân chứng này đã quen với Glamis Barlow, ông ta đã thấy cô ấy nhiều lần ở Las Vegas và ông ta khẳng định rằng chính Glamis Barlow là người con gái ông ta đã thấy rời khỏi văn phòng của Vera Martel một cách ám muội.
- Văn phòng của Vera Martel ở Las Vegas nằm tại tầng hai của cao ốc, tầng dưới là cơ sở cờ bạc. Một vài phòng trong tầng hai được dùng làm phòng ở và một số phòng khác thì được dùng làm văn phòng. Văn phòng làm việc của Vera Martel nằm đối diện với phòng ở của nhân chứng này.
- Ông ta được cấp phòng ở này vì ông ta là nhân viên chia bài của sòng bạc dưới nhà.
- Chúng tôi sẽ chứng minh là nhân chứng này đã nhìn thấy Glamis Barlow rời khỏi văn phòng của Vera Martel một cách ám muội, và sáng hôm sau, người ta thấy văn phòng này bị mất trộm, hồ sơ bị đánh cắp, giấy tờ bị vứt bừa bãi trên sàn chứng tỏ là đã có một sự tìm kiếm hồ sơ.
- Ông có thể cho biết chính xác thời gian xảy ra sự việc không? Mason hỏi.
- Thời gian chính xác là chín giờ mười lăm tối, Hamilton Burger nói. Nhân chứng xác định thời gian chính xác vì ông ta nghe đài phát thanh đang báo giờ của chương trình. Và thưa quý tòa, chúng tôi sẽ trình bày dấu tay của bị cáo Carter Gilman được tìm thấy tại văn phòng ấy.
- Tôi vẫn xin phản đối, Mason nói. Đây chỉ là cách thức suy luận. Chúng tôi yêu cầu Công tố trước hết hãy chứng minh rằng bị cáo đã đưa chìa khóa cho Glamis Barlow.
- Tôi nghĩ rằng, chúng tôi có thể thiết lập sự kiện đó bằng cách suy luận tại giai đoạn này của vụ án, Hamilton Burger nói.
- Ngoài ra, Mason nói, một nhân chứng không thể tự nhận xét cung cách của một người khác và bảo là ám muội được. Đó chỉ là tự kết luận.
- Trong trường hợp này thì không, Hamilton Burger phản đối. Có hàng chục yếu tố chứng tỏ sự phạm tội như rón rén bước ra, nhìn tới lui trên hành  lang, ngoái lại sau lưng, đóng cửa một cách nhẹ nhàng.
- Thì cứ việc cho nhân chứng của ông khai hàng chục yếu tố đó đi, Mason nói, và tôi sẽ chất vấn ông ta từng yếu tố một. Nhưng ông ta không thể đưa ra kết luận của mình được.
Chánh án Alvord suy nghĩ một chút rồi chợt đi đến quyết định:
- Tòa sẽ hỏi ý kiến các giới chức khác về vấn đề này. Chiều tối nay tôi sẽ tham khảo với các giới chức. Sáng mai mười giờ tôi sẽ có quyết định.
- Bên bị cáo có gì phản đối về sự đình xử đến mười giờ sáng mai không?
- Chúng tôi không phản đối, Mason nói.
- Được rồi, Chánh án Alvord nói. Phiên xử sẽ tiếp tục vào lúc mười giờ sáng mai. Tòa sẽ tham khảo ý kiến với các giới chức và sẽ cho biết quyết định vào lúc mười giờ sáng mai. Trong khi chờ đợi, bị cáo vẫn còn bị giam giữ. Tòa đình đến mười giờ sáng mai. Tất cả các nhân chứng có trát mời sẽ trở lại đúng giờ.

Chương trước Chương sau