Thiên tỏa - Chương 10

Thiên tỏa - Chương 10

Đất bay cát chuyển và lũ hắc ưng

Ngày đăng
Tổng cộng 16 hồi
Đánh giá 8.6/10 với 16905 lượt xem

Lão Ngũ đưa tay lên lau những giọt mồ hôi bám trên chòm râu, rồi lão bắt đầu khởi động chân tay, trông bộ dạng giống hệt như tên hề xiếc. Cho dù trông lão rất ngộ nghĩnh nhưng tôi không dám cười thành tiếng mà chỉ cố nghiến chặt răng nhịn cười.
Lão xoay xoay đầu, đưa tay lên tháo chiếc cúc áo trên cùng, để lộ ra những xương sườn nhô hẳn ra ngoài lồng ngực hom hem, rồi chậm rãi giảng giải:
- Cửa ải cuối cùng của Tam Linh môn có lẽ sẽ là Hắc Ưng môn. Chúng ta đã vượt qua được hai cửa Hắc cẩu và Hắc xà, giờ chắc là lúc phải ứng phó với hắc ưng rồi. Hai cửa ải vừa xong đã khó khăn vô cùng, xem ra cửa ải này sẽ càng khôn lường hơn. Bản thân ta cũng không thể tiên liệu được nó sẽ khó khăn đến mức nào.
Nói xong, lão nhíu mày, đưa mắt nhìn ra bốn phía xung quanh, nói với vẻ dè chừng:
- Người ta vẫn thường nói hắc khuyển trên cạn, hắc xà dưới nước, hắc ưng trên không, nếu theo quy luật này thì chỉ lát nữa thôi, những con chim ưng đó từ phía trên kia sẽ sà xuống. Không gian ở đây rộng lớn như vậy, chắc là để chúng có thể thoải mái vẫy vùng.
Nghe đến đoạn những con chim ưng sẽ bay từ trên xuống, tôi vội vàng giơ balô lên che chắn, chỉ sợ chúng bỗng nhiên từ trên sà xuống mổ vào đầu thật.
Chị Giai Tuệ kéo tôi lại gần, ôm chặt lấy vai tôi, rồi hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, chỗ này quá rộng lớn, nhất định phải có định hướng rõ ràng, nếu không rất dễ bị lạc đấy.
Lão Ngũ gật gật đầu, rồi ngồi sụp xuống, dùng chiếc gương Dạ Minh soi xuống phía dưới chân, đưa tay lần sờ từng vị trí một, kế đó lão ngẩng đầu lên nói với chúng tôi:
- Hai đứa hãy men theo đường khe giữa mấy tảng đá lót này mà đi, cố gắng đi đúng đường, nếu chệch sẽ rắc rối to đấy.
Tôi nhìn theo hướng tay lão chỉ, mặt sàn trong hầm đều được lát bằng những phiến đá lớn với bốn cạnh vuông vức ghép lại với nhau, nếu cứ men theo một đường khe tiến về phía trước, chỉ cần không đi chệch hướng thì tôi nghĩ chắc cũng sẽ đến được đầu bên kia.
Sau khi dàn xếp ổn thỏa, Lão Ngũ cầm gương Dạ Minh dẫn đầu đi thẳng về phía trước, chị Giai Tuệ đi sau cùng còn tôi thì ở giữa. Ba người chúng tôi lần lượt nắm gấu áo của người đi trước, dò dẫm từng bước chân theo đúng khe lát trên sàn đá, từ từ tiến vào bóng đen mênh mông phía trước.
Càng tiến lên, tôi càng cảm thấy nóng không thể chịu nổi, luồng gió oi nồng liên tục thổi tới từ khắp tứ phía giống như trong lồng hấp khổng lồ, khiến cho mồm miệng tôi khô rát, còn mắt mũi thì cay xè đau nhức đến mức không thể nào mở ra được. Những giọt mồ hôi trên cơ thể vừa túa ra lập tức bốc hơi mất, từng lớp từng lớp một, cứ như thế cả cơ thể tôi trong nháy mắt đã bị phủ đầy lớp muối trắng. Lão Ngũ vốn đen sạm giờ phủ đầy những hạt muối trắng li ti, nền đen hoa trắng, trông lão giống hệt con ngựa vằn.
Đi được một lúc, chị Giai Tuệ mở balô lấy ra ba chai nước đưa cho chúng tôi. Tôi uống ừng ực một hơi hết nửa chai, nửa chai còn lại thì tưới lên hai cánh tay, lên mặt. Hơi nước nhanh chóng bốc lên, mang đến cảm giác mát mẻ dễ chịu trong giây lát.
Lão Ngũ vừa bước về phía trước vừa lẩm bẩm trong miệng:
- Luồng khí lạnh lúc nãy là dải khí Đống Thổ thổi xuyên qua lòng đất ba tỉnh Đông Bắc đấy. Điều này thì cũng không có gì ngạc nhiên, nhưng thực sự ta chưa nghe thấy mấy thứ nham thạch trong lòng đất hay đại loại thế bao giờ. Thêm nữa, ta cảm thấy sức nóng này tỏa ra từ lòng đất, giống như nhiệt của xăng dầu, hay nham thạch núi lửa gì đó. Mẹ kiếp! Không phải là đám cẩu Thanh đã tìm ra mỏ dầu ở dưới này đấy chứ? Hay đấy, hay đấy!
Chị Giai Tuệ mệt mỏi đưa tay lên lau mồ hôi, rồi nói:
- Lão Ngũ, ý của lão là, phía dưới này có một mỏ dầu? Theo như cháu biết, một vài mỏ dầu thường phun trào theo chu kì nhất định, phải chăng những người thợ tu sửa hồi đó đã dẫn dầu xuống địa cung?
Lão Ngũ gật đầu, nói thêm:
- Năm 1960, đó cũng là lúc đất nước rơi vào tình trạng đói kém đến cực điểm, ta và sư phụ cùng một vài sư thúc khác đói đến phát điên, nên đã quyết định mò tới mỏ dầu Karamay để kiếm chác, đồ ăn cắp được đem về đổi lấy cháo loãng ăn tạm qua ngày. Trong một lăng mộ của tên vua nào đó cũng được thiết kế y như thế này. Mẹ nó chứ! Lăng được xây trên miệng núi lửa ở giữa sa mạc, vào đó là coi như trụi lông trụi tóc. Ha ha, mẹ kiếp! Nếu thoát ra khỏi đây được, không khéo chúng ta lại trở thành những người có công phát hiện ra mỏ dầu lớn cho quốc gia đấy chứ. Hay đấy, hay đấy!
Tôi nghe lão nói một hồi mà chả hiểu gì cả, đành phải hỏi lại:
- Cái gì mà mỏ xăng với chả mỏ dầu thế, cái đấy ở đây ạ?
Lão Ngũ bĩu môi:
- Nói linh tinh gì đấy, ta đang nói đến mỏ dầu Karamay thuộc Tân Cương cơ mà, nơi ấy cách chúng ta rất xa.
Tôi gật gù, bụng nghĩ thầm Lão Ngũ chắc chắn là đã được đi đến rất nhiều nơi.
Chúng tôi lặng lẽ tiến về phía trước khoảng hơn nửa tiếng, nhưng vẫn không hề nhìn thấy bất kỳ một đường biên nào. Bước đi trong khoảng tối mênh mông khiến cả ba đều cảm thấy chút hoang mang, lại còn thêm nhiệt độ trong căn hầm tăng cao tới mức khó có thể chịu đựng nổi, môi của ai nấy đều khô khốc, tróc vảy, trên người gần như đã cởi hết những đồ có thể cởi, thế nhưng cơ thể vẫn đầm đìa mồ hôi như tắm.
Tôi cũng không ngượng ngùng gì nữa, cởi hết áo khoác ngoài ra buộc quanh eo, trên người chỉ còn độc chiếc áo lót. Dù sao cũng đang trong bóng tối, hơn nữa Lão Ngũ cũng đã lớn tuổi như thế rồi, nên tôi cũng chẳng ngại ngần gì.
Chúng tôi lê từng bước nặng nề, cả ba đều gần như ở trần, chậm chạp bước từng bước vào chiếc lồng hấp tối đen như mực, đi mãi không đến bờ bên kia. Trên đường đi, do đã bị mất nhiều máu cộng thêm thời tiết quá nóng khiến tôi không ngừng xin nước uống. Chị Giai Tuệ đưa cho tôi chai nước của chị, và dặn tôi nên tiết kiệm một chút, nếu không chỗ nước trong balô sẽ nhanh chóng bị tôi uống sạch.
Biết là như thế, nhưng cổ họng tôi khô rát như lửa đốt, mồ hôi vừa túa ra đã lập tức bốc hơi bay mất, cả người như một miếng củ cải khô, nhăn nheo và khô ráp. Tôi đưa tay sờ lên người, làn da sần sùi đầy hạt li ti, đó là vết tích của mồ hôi sau khi bốc hơi đọng lại những hạt muối, giống như cơ thể bị bao phủ bởi một lớp vảy khô.
Qua ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh, khuôn mặt của Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cũng phủ đầy những vệt muối ngang dọc màu trắng, trông hết sức buồn cười. Lúc này, đến một người hài hước hay trêu đùa như Lão Ngũ cũng trở nên ủ rũ, lặng lẽ cầm gương Dạ Minh lê bước về phía trước, không còn luôn miệng nói “ hay đấy, hay đấy” như trước nữa.
Do nhiệt độ tăng cao, cộng thêm không khí khô rát trong hầm, khiến cho vết thương trong lòng bàn tay tôi nhanh chóng liền lại, giờ nó không đau buốt nữa mà chỉ còn hơi tê tê. Tôi thử dùng mũi kim móc chọc vào ống sắt, rồi lấy ngón tay búng lên đó vài cái, cảm giác nó đã khô cứng lại, nên tôi nghĩ có lẽ đã giữ được vết sẹo đó mãi mãi.
Vân vê một lúc, trong đầu tôi lại nhớ đến ông nội. Từ khi xuống địa cung, tôi đã vượt qua rất nhiều cửa ải khó khăn, nhưng không hề tìm thấy dấu vết gì của ông để lại, nhất định con đường mà ông nội đi không phải con đường mà chúng tôi đã trải qua. Không biết giờ này ông đang phiêu bạt đến đâu, cảm giác không biết ông đang sống chết ra sao khiến tôi đau đớn vô cùng. Tôi chỉ biết thầm gọi trong câm lặng: Ông ơi, giờ này ông đang ở đâu?
Đang trong lúc vô vọng vì không tìm được dấu vết của ông nội, tôi còn thêm một nỗi niềm khác khiến lòng rối như tơ vò, bàn tay tôi giờ đã có một lỗ sẹo, vậy sau này có nên tiếp tục nâng cao kỹ thuật Địa Kiện nữa không? Trở thành một cao thủ cấp Địa Kiện, hay thậm chí là Thiên Kiện. Có lẽ trong thời gian ở dưới địa cung, tôi đã trải nghiệm được không ít những khó khăn, và quan trọng hơn tôi đã đạt được cấp Địa Kiện, trong lòng tôi bỗng nhen nhóm một động lực để khám phá thế giới dưới lòng Cố Cung.
Đi thêm hơn một trăm mét nữa, Lão Ngũ bỗng nhiên dừng bước, câu cửa miệng “hay đấy!” lại được thốt ra. Lão nhìn chằm chằm về phía trước, mồm liên tục lẩm bẩm:
- Tốt lắm, hắc ưng chuẩn bị xuất hiện rồi, hay đấy, hay đấy! Thì ra nó được thiết kế như thế này!
Nghe thấy những lời Lão Ngũ thốt ra, chị Giai Tuệ lao lên trước, vội vàng hỏi lão chuyện gì sẽ xảy ra, lũ hắc ưng kia ở đâu?
Lão Ngũ giơ chiếc gương lên thật cao, hướng về một điểm rất xa trên đầu rồi nói:
- Hai đứa nhìn xem, kia là cái gì?
Chúng tôi nhìn theo hướng Lão Ngũ vừa chỉ. Dưới quầng sáng của chiếc gương Dạ Minh, lờ mờ cách chúng tôi chừng ba mươi mét là một vật rất lớn, đen thui đang lơ lửng trên không trung. Theo như những gì chúng tôi quan sát được, vật đó to chừng cái chum, hình dáng không theo một quy luật gì, rất khó để miêu tả nó.
Vật đó dường như đã quá quen với không gian tối om, nên việc bất chợt xuất hiện ở phía trên, khiến người ta rất dễ giật mình hoảng hốt.
Tôi tò mò hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, liệu đó có phải là hắc ưng không ạ?
Lão Ngũ chưa kịp trả lời tôi, thì chị Giai Tuệ đã hét lên một tiếng thất thanh:
- Nhìn kìa, nó đang di chuyển đấy!
Câu nói này khiến tôi sợ rúm cả người, vội vàng quay đầu nhìn lại cho rõ hơn, đúng là vật đó đang chuyển động thật. Trong bóng tối, con hắc ưng từ từ cất cánh, có vẻ như nó đang bay thẳng lên không trung, cách chúng tôi mỗi lúc một xa. Không chỉ thế, toàn thân nó cũng liên tục thay đổi hình dạng, cảm giác như đã lớn hơn lúc nãy rất nhiều.
Cảnh tượng đó khiến tôi trợn tròn mắt, tim đập loạn xạ, trong đầu bỗng dưng xuất hiện những ý nghĩ kỳ quặc, con hắc ưng này nhất định là chim thật rồi, nếu không thì tại sao lúc nãy nó có thể lơ lửng giữa không trung, chỉ trong nháy mắt lại sải cánh bay vút lên cao và thay đổi hình dạng nhanh như thế?
Lão Ngũ vuốt chòm râu rồi nắm lấy tay hai chị em chúng tôi, nói:
- Nếu như ta đoán không nhầm thì đấy chính là điểm mấu chốt của cửa ải này, giới giang hồ thường gọi là Tiêu Nhãn. Con vừa rồi chính là chim dò đường, chứng tỏ lúc chúng ta tiến vào động Hắc ưng đã chạm vào một bộ phận nào đó khiến con chim kia bay lên. Đừng nghĩ rằng nó có thể lơ lửng trong không trung, chắc chắn nó phải được treo bằng một loại xích lớn, ròng từ trên xuống. Nhưng thôi, đừng có đứng đực mặt ra nhìn nó nữa, sống chết thế nào thì cứ đi về phía trước là biết ngay thôi.
Không đợi Lão Ngũ nói xong, tôi đã nhấc gót đi lên phía trước.
Chưa kịp đặt chân xuống đất, Lão Ngũ từ đằng sau đã giật túm tóc tôi lại, cáu kỉnh nói:
- Con ngốc này, thích chết đấy à? Để ta nói hết câu đã chứ.
Nghe lão nói vậy, tôi lè lưỡi rồi bước ra phía sau lão, thực sự giờ phút này tôi mới ý thức được rằng đã bước chân vào bên trong hầm thì nguy hiểm rình rập khắp nơi, chỉ cần sẩy một li là đi vạn dặm.
Lão Ngũ kéo chúng tôi ngồi xuống, rồi dùng móng tay cào nhẹ lên mặt sàn đá, sau đó quay sang hỏi chị Giai Tuệ:
- Mi đã nhận ra đây là loại khóa gì chưa?
Chị Giai Tuệ cúi sát người xuống, mặt gần như chạm vào sàn đá, chị dùng gương Dạ Minh soi xét hồi lâu rồi mới ngẩng đầu lên nói với Lão Ngũ:
- Cháu không nhìn thấy bất kỳ dấu hiệu gì khác thường, thế nhưng theo cháu thì lũ hắc ưng này bay lượn trên không trung, còn chúng ta thì lại không thể với tới chúng, thế nên chắc chắn cỗ máy điều khiển sẽ phải được lắp đặt phía dưới mặt sàn này.
Lão Ngũ gật gù ra chiều hài lòng, rồi hể hả giải thích:
- Chính xác, đầu óc mi phản ứng cũng không tồi đâu. Vừa nãy khi ở cửa ải nhộng chúa, ta quên chưa nói với hai đứa, ngoài những cỗ máy liên kết, còn có những cỗ máy tách rời nhau. Tức là mặt đất và không trung tuy không tiếp xúc với nhau, nhưng chúng được nối lại bằng một loại dây vô cùng đặc biệt, và đây chính là một trong số đó. Trông thì tưởng như chúng không hề liên quan gì với nhau, nhưng chỉ cần vô tình chạm vào một chi tiết cho dù là nhỏ nhất thì cũng khiến cả cỗ máy hoạt động, đến lúc đó e là tính mạng khó giữ.
Nghe thấy vậy, tôi vội co rúm người lại, đưa mắt nhìn ngó hai bên xem mình có vô tình giẫm vào cái gì không.
Lão Ngũ ngẩng đầu nhìn theo con hắc ưng đang dần biệt tăm trong không trung, lão thở dài nói:
- Ba mươi sáu con hắc cẩu ứng với sáu sáu thuật mở; bốn mươi chín con hắc xà ứng với bảy bảy thuật mở. Mẹ kiếp! Vậy thì hắc ưng chỉ có nhiều hơn chứ không thể ít đi, có khi lên đến sáu mươi tư con cũng nên.
Chúng tôi đều hiểu ý của lão, theo trật tự của Tam Linh môn thì số lượng hắc ưng không thể ít hơn sáu mươi tư con, chỉ có điều không biết lần này chúng sẽ tấn công theo hình thức nào, nhưng chúng tôi có thể tưởng tượng được sự nguy hiểm đang rình rập trước mắt.
Tôi quay đầu nhìn ngang ngó dọc đầy vẻ sợ hãi, tay vẫn nắm chặt lấy gấu áo Lão Ngũ, rụt rè hỏi:
- Lão Ngũ ơi, bao giờ chúng mới xuất hiện thế?
Lão Ngũ lắc đầu, cười giọng lạnh tanh:
- Cái lũ chim trời đánh ấy thì biết thế nào được, không khéo lại xuất hiện ngay bây giờ ấy chứ!
Lão Ngũ vừa nói dứt câu, tôi bỗng cảm thấy mặt sàn rùng rùng chuyển động, giống như vừa xảy ra một trận động đất nhỏ, khiến cả ba người chúng tôi đứng phắt dậy.
Phản ứng đầu tiên của chị Giai Tuệ là, một tay nắm chặt tôi, tay kia níu chặt cánh tay Lão Ngũ, hoảng hốt hỏi lão:
- Lão Ngũ, cỗ máy đó đã bắt đầu hoạt động rồi à?
Lão Ngũ đưa tay ra hiệu im lặng, rồi khẽ khàng nói với chúng tôi:
- Đừng có hét lên, ngồi xuống, quan sát mặt sàn đi.
Tôi và chị Giai Tuệ lập tức làm theo, cúi đầu chăm chú nhìn xuống mặt sàn đá.
Tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy tất cả những phiến đá lát sàn đều đang di chuyển bập bềnh, cứ như chúng đang nổi trên mặt nước vậy, những đường khe giữa các phiến đá bắt đầu tách dần ra. Cùng lúc đó, từ phía dưới lòng đất vô số những hạt đất màu đen nhỏ li ti đùn lên qua những khe rãnh đó, giống như làn khói mỏng đang dần dần lan tỏa. Sau khi bay lên được chừng vài centimet thì bị khí nóng đang hừng hực trong hầm đánh tan, khiến cho chúng phải tỏa đi khắp mọi nơi, những phiến đá khổng lồ màu xanh dần chuyển thành xám xịt, chỉ một chốc sau cả mặt sàn đã bị phủ kín bởi một lớp đất dày. Tôi càng nhìn càng cảm thấy hãi hùng, chỉ biết đứng trân trân bám chặt lấy Lão Ngũ.
Lão Ngũ dùng đầu ngón chân quắp lấy một chút đất đen đưa lên quan sát kỹ hơn.
Trước mắt chúng tôi, những hạt đất này vô cùng nhỏ và nhẹ, chẳng trách nó có thể nhẹ nhàng tung mình lên không trung như thế.
Trong lúc tôi còn đang mông lung chưa hiểu rõ đầu đuôi sự việc thì đã thấy Lão Ngũ quay sang một bên nhổ toẹt một bãi nước bọt, rồi cay nghiệt nguyền rủa:
- Mẹ chó nhà nó, thì ra chúng đã chôn lớp đất bay cát chuyển ở ngay bên dưới, quá hay…!
Tôi biết Lão Ngũ bản chất vốn là dân giang hồ, nên đến nói chuyện cũng quen thói thô lỗ, văng tục bừa bãi. Nhưng vì đi cùng hai chị em chúng tôi, đều còn trẻ và là con gái nên lão đã kiềm chế đi rất nhiều. Khi nghe lão nói xong, tôi lập tức đoán ra, cái thứ gọi là “đất bay cát chuyển” kia chắc chắn phải vô cùng lợi hại, người cố tình sử dụng nó phải vô cùng ác ý, thì mới khiến Lão Ngũ mất bình tĩnh văng ra những câu như thế.
Mặt sàn dưới chân vẫn không ngừng rung chuyển, lớp đất bay màu đen kia đùn lên mỗi lúc một nhiều, chỉ một lúc sau chúng đã ngập ngang bắp chân chúng tôi. Có không ít những hạt đất nhỏ còn cố bay lên cao hơn, khiến không gian trong phòng càng trở nên mù mịt. Đặc biệt là trong hoàn cảnh căn hầm thì đang nóng như lửa đốt, những hạt đất nhỏ thì cứ bay lên bám đầy trên mặt trên người, thậm chí còn vào tận hốc mũi, hốc mắt, khiến chúng tôi cảm thấy vô cùng khó chịu.
Chị Giai Tuệ nhanh chóng quay lại, lấy từ trong balô ra một cuộn băng vải, xé toạc ra thành ba đoạn dài.
Lão Ngũ nghe thấy tiếng xé vải liền quay lại xem có chuyện gì. Chị Giai Tuệ vội dúi vào tay mỗi người một đoạn vải, nói:
- Lấy tạm cái này bịt mũi đi, đừng để hít phải chúng. - Nói xong, chị lại lấy từ trong balô ra chiếc kính chống bụi đưa cho chúng tôi. Xem ra, chị Giai Tuệ thực sự là một người rất chu đáo, trước khi lên đường chắc đã phải chuẩn bị rất nhiều thứ, chẳng trách chiếc balô cảnh sát của chị ấy lại to và nặng đến vậy.
Tôi dụi dụi cặp mắt đang đỏ rát vì đất bay, thấy chị nói không hề sai, liền vội vàng cầm chiếc kính đeo lên, đang định cầm mảnh băng vải bịt mũi thì Lão Ngũ giật lại, quát ầm lên:
- Bịt cái gì mà bịt, không thấy trong này đang nóng giãy lên à? Bịt rồi chết ngạt ra đấy!
Nói xong, lão vứt những mảnh băng vải xuống đất, chỉ đeo chiếc kính chống bụi rồi nắm chặt lấy tay hai đứa tôi kéo về phía mình, giọng hổn hển ra lệnh:
- Giờ không phải là lúc để nói cho hai đứa bay về mọi chuyện đang diễn ra, hai đứa ôm chặt lấy ta, càng chặt càng tốt, không sợ ta tắc thở mà chết đâu. Nhớ rằng, tuyệt đối không được hé môi, cử động hay tự ý làm gì nếu không có lệnh của ta, qua được cửa ải này hay không là phụ thuộc vào hai đứa đấy. Chỉ cần nói một chữ, động đậy một chút là coi như cả ba chúng ta tự đào mồ chôn mình đó nghe.
Nghe Lão Ngũ nói một hơi dài như thế, nhưng tôi vẫn thấy mơ hồ khó hiểu, vội hỏi lại lão:
- Lão Ngũ, vì sao lại thế? Cuối cùng lũ đất bay này là cái…
Chưa kịp nói hết câu, mặt sàn dưới chân bỗng vang lên một tiếng động cực lớn, giống như có một mũi khoan khổng lồ đang lao từ dưới lòng đất lên hay như một lưỡi cưa sắc bén đang cưa ngang thanh thép, khiến người ta dựng cả tóc gáy. Hơn nữa, âm thanh đó mỗi lúc một thêm dữ dội hơn, từng tràng từng tràng dội tới, khiến đầu tôi ong ong như muốn nổ tung, hai mắt hoa lên. Ngay sau đó, mặt sàn dưới chân rung chuyển mạnh, hết nghiêng sang trái rồi lại lắc sang phải, khiến cả ba chúng tôi lảo đảo không ngừng.
Mọi việc diễn ra hoàn toàn bất ngờ nên cả người tôi cũng chao đảo rồi ngã nhoài xuống đất. Lão Ngũ nói gọn lỏn một câu:
- Đến rồi đấy! - Rồi lập tức đưa tay ra ôm chặt lấy tôi và chị Giai Tuệ, làm cả hai chúng tôi đều bị kẹt cứng ngắc trong lòng lão. Ngay sau đó, tôi nghe thấy có tiếng gió rin rít, thổi thốc từ dưới lên, và cứ thế, những hạt đất đen tung mình theo chiều gió, bắn mạnh vào chân đau rát.
Cảm thấy chân mình rát không chịu nổi, tôi bèn thận trọng cúi mặt nhìn xuống. Lớp đất đen phía dưới không ngừng vun dày lên, kì lạ hơn nữa, từ trong đống đất đen đó lại bắn ra những hạt cát trắng to bằng hạt vừng. Những hạt cát trắng đó như được bắn thẳng từ dưới lòng đất lên, xuyên qua lớp đất đen, cọ xát vào nhau tạo nên những tiếng rin rít rất lạ tai.
Những hạt cát trắng bay lên khoảng hơn chục centimet thì lạo xạo rơi xuống nền đất đen. Lạ ở chỗ, sau khi rơi xuống, chúng lập tức lún sâu, tạo nên những vòng xoáy trôn ốc trên bề mặt, không chỉ thế, những vòng xoáy đó còn di chuyển lung tung không theo một quy luật nào, thậm chí còn va vào nhau, phát ra những tiếng “tinh tinh tang tang” rất vui tai. Cùng lúc đấy, những hạt đất đen xung quanh cũng bị hút theo tạo thành những vòng xoáy cao dần, giống hệt như vòi rồng thu nhỏ.
Tôi đưa mắt nhìn, bốn bề đều là những vòi rồng đang không ngừng xoáy lên cao, tiếng rít mỗi lúc một to hơn, hệt như một cơn lốc lùa qua khe cửa xé nát những tấm giấy dán cửa.
Cảnh tượng trước mắt khiến tôi ngỡ ngàng, không rõ chúng tôi đang ở dưới lòng đất hay trên sa mạc nữa? Đang lan man suy nghĩ, tôi bỗng cảm thấy lớp đất đen kia giờ đã ngập quá đầu gối, và đang tiếp tục dâng lên nhanh chóng. Lớp đất không ngừng dâng lên, khiến cho nỗi sợ hãi trong lòng tôi càng tăng lên bội phần.
Bỗng nhiên, tôi nhận thấy một điều rất lạ, mỗi khi lớp đất đen tràn lên cố lấp lớp cát trắng thì lập tức lớp cát trắng sẽ lại đùn lên cao hơn, rồi tiếp tục xoáy tròn trên bề mặt đất đen. Thật sự không thể đoán ra được phía dưới sàn đá phải chôn một lượng đất cát nhiều như thế nào.
Tôi cũng đã dần dần hiểu vì sao lúc nãy Lão Ngũ lại gọi chúng là đất bay cát chuyển, ắt hẳn là lão muốn nhắc đến khả năng tự chuyển động của hai loại đất đen cát trắng này. Qua cảnh tượng kì vĩ trước mắt, tôi thầm đoán định cái thứ gọi là đất bay cát chuyển này e là sẽ vô cùng khó đối phó.
Nghĩ đến đây, tôi quay về phía Lão Ngũ, vì không được nói chuyện, nên đành dùng ánh mắt để dò hỏi. Lão Ngũ nhìn tôi khẽ gật đầu, nói thầm trong miệng:
- Không được động đậy! - Rồi lão nhẹ nhàng đưa chiếc gương Dạ Minh đang cầm trong tay lên miệng, ngậm thật chặt giữa hai hàm răng, tia sáng xanh của chiếc gương quét ngang mặt, khiến mặt mũi ba chúng tôi biến thành một màu xanh lét trông rất đáng sợ. Lão Ngũ vẫn ra sức ôm chặt chúng tôi vào lòng. Có vẻ bản thân lão cũng có chút lo lắng, nên dù ôm chặt thế nào tôi vẫn cảm thấy hai bàn tay lão hơi run run.
Do nhiệt độ trong phòng rất cao, nóng rát đến kinh người, nên tôi và chị Giai Tuệ đều đã cởi hết áo ngoài, trên người chỉ còn độc bộ đồ lót. Không những thế, lại bị Lão Ngũ ghì chặt trong lòng, khiến người tôi vừa nhớp nháp vừa đau nhức. Đây là lần đầu tiên tôi bị một người đàn ông ôm chặt như thế, dù biết Lão Ngũ cũng ngang tuổi ông nội, nhưng tôi vẫn cảm thấy vô cùng ngại ngùng, mặt mũi đỏ bừng bừng. Tôi hơi nghiêng đầu liếc sang chị Giai Tuệ, hình như chị không để ý gì đến tôi, mà chỉ nhìn chằm chằm vào lớp đất cát đang không ngừng dâng cao.
Đang mải nghĩ ngợi miên man thì một thoáng sau lớp đất cát đã ngập tới ngang ngực tôi. Tuy không có cảm giác bị đè nén, nhưng tôi vẫn cảm thấy hết sức sợ hãi, nếu cứ tiếp tục như thế này, chẳng mấy chốc đống đất cát này sẽ nhấn chìm chúng tôi cho đến chết. Tôi đưa mắt nhìn Lão Ngũ cầu cứu, khuôn mặt lão nhìn cũng có vẻ căng thẳng, nhìn thẳng vào đống đất cát đang dâng lên không hề chớp mắt, nhưng tôi lại không hề nhìn thấy sự sợ hãi trong ánh mắt đó.
Thấy Lão Ngũ như vậy tôi cũng cảm thấy yên tâm đôi chút, trộm nghĩ, dù sao lão cũng thấp hơn tôi, nếu đất cát có dâng lên thì lão sẽ là người ra đi đầu tiên.
Bỗng nhiên, tôi cảm thấy cơ thể mình nhẹ tênh như được nâng đỡ, bàn chân dần dần rời khỏi mặt sàn đá, lơ lửng như đang nổi trên mặt nước, hay đúng hơn là bất ngờ bị rơi xuống nước rồi từ từ nổi lên. Cảm giác này đến khá đột ngột, khiến tôi thấy mình như đang bị mất trọng lượng. Quay sang nhìn Lão Ngũ và chị Giai Tuệ thì thấy cả hai người họ cũng đang bắt đầu nổi lên, thế nhưng khi nhìn xuống, lớp đất cát phủ ngang ngực tôi vẫn không hề tụt xuống mà vẫn giữ nguyên vị trí. Nhìn sang bốn phía, tôi mới nhận ra rằng, thì ra chúng tôi đang nổi lên cùng với lớp đất cát đó. Xem ra, lớp đất cát này dâng đến một mức độ nào đó sẽ tự động nổi lên. Mặc dù mới học hết cấp Hai là bỏ học, nhưng đôi chút kiến thức vật lý đơn giản tôi vẫn nắm được, song thật không thể tưởng tượng được rằng loại đất đen cát trắng lại có thể sản sinh lực đẩy mạnh như thế, điều này thực sự đã vượt khỏi tầm hiểu biết của tôi. Đây đúng là một bảo vật hiếm có, nhưng cũng nhờ vậy mà chúng tôi sẽ không bị chết chìm ở đây.
Nghĩ vậy, tôi liền thở phào, nghĩ thầm mình còn phúc đức, giờ chỉ còn biết chờ đợi xem chúng tôi bị đẩy tới mức nào thôi. Căn hầm này không có nóc, cũng chẳng có đường biên, nếu như cứ tiếp tục nổi đến tận đỉnh, biết đâu lại tìm thấy đường ra?
Thở phào nhẹ nhõm, tôi bỗng cảm thấy trong người vô cùng khoan khoái và mát mẻ dễ chịu hơn rất nhiều.
Từ khi đặt chân vào trong căn hầm này, chúng tôi như bước trên sa mạc, không khí ngột ngạt, nóng bức rất khó chịu, mất nước đến độ đầu óc quay cuồng. Thế nhưng có một điều rất lạ là ở chỗ, lớp cát này phủ đến đâu thì ngay lập tức mọi nóng rực, khó chịu lập tức biến mất đến đó, khiến cho người ta cảm thấy cơn nóng như dịu đi nhanh chóng. Do quá chú tâm vào lớp đất cát đang dâng lên, đến giờ tôi mới nhận ra cảm giác này, không biết nó đã xuất hiện bao lâu rồi.
Dòng cát cứ thế liên tục đùn lên, giống như những con sóng đang không ngừng dâng lên lấp kín cả căn hầm, những hạt đất cát mang hai màu trắng đen hòa quyện vào nhau, tạo thành hai mảng trắng đen rất vui mắt.
Không khí nóng rực ngột ngạt của căn hầm giờ đã dần trở nên mát mẻ và dễ chịu hơn nhiều. Cơ thể chúng tôi bị lớp cát dày bao bọc, nhưng lại không hề cảm thấy khó chịu, chỉ có điều cảm giác mát mẻ đó mỗi lúc lại trở nên lạnh hơn, song so với cái lạnh rét buốt ở cửa ải Hắc Xà thì ở đây vẫn dễ chịu hơn nhiều.
Lão Ngũ vẫn ôm chặt lấy tôi và chị Giai Tuệ, cả ba không ngừng bị đẩy lên phía đỉnh hầm cùng với lớp đất cát.
Mặc dù trong lòng đang rất sợ hãi nhưng tôi vẫn gắng giữ bình tĩnh, lặng im đưa mắt nhìn ra bốn phía xung quanh. Những vòng lốc xoáy nhỏ đã biến mất từ lâu, và cũng không còn âm thanh lách cách vui tai kia nữa. Những hạt đất đen cát trắng tuy hòa lẫn với nhau, mắt thường rất khó phân biệt được, nhưng nhìn kỹ chúng vẫn là những cá thể riêng biệt không ngừng chuyển động, khiến người ta có cảm giác mỗi hạt cát là một sinh vật sống.
Cảnh tượng đang diễn ra thật sự khiến tôi rất tò mò, và đã vài lần định mở lời hỏi Lão Ngũ thực hư, không biết rằng chúng tôi cứ dâng lên như thế này đến bao giờ mới tới được đỉnh? Thế nhưng, nhìn sang thấy vẻ mặt hết sức nghiêm trọng của Lão Ngũ, tôi lại nhớ đến những lời dặn dò ban nãy, không được tự ý hành động cũng như lên tiếng, nên tôi lại cố nén tò mò, cắn chặt răng, im lặng chờ đợi.
Nâng lên khoảng hơn mười mét, lớp cát tự chụm lại với nhau tạo nên những đồi cát lớn. Chúng bay lên rồi hạ xuống, hạ xuống rồi lại bay lên… giống như bên dưới có vật vô hình nào đó đang muốn nuốt chửng chúng. Lớp cát sền sệt như dầu nhớt, để mặc vật vô hình phía dưới ra sức đâm lên, sau đó liên tục thay đổi hình dạng, mà vẫn phủ kín bên trên, không hề bị tung ra khiến chúng tôi không thể phát hiện vật trong đó là thứ gì.
Tôi lo lắng đánh mắt nhìn ra tứ phía, lo sợ rằng dưới lớp đất cát kia là con vật hung ác nào đó đang chực chồm lên, liệu nó có ăn thịt người không? Nghĩ đến đó, mồ hôi trên trán tôi túa ra như tắm, lúc này tôi thậm chí còn sợ hãi hơn khi ở cửa ải nhộng chúa.
Tôi quay sang nhìn Lão Ngũ, sắc mặt của lão âm u tới mức khó hiểu, nhưng ánh mắt vẫn kiên định, ra hiệu cho chúng tôi hãy bình tĩnh, giữ nguyên trạng thái như bây giờ, tuyệt đối không nhúc nhích.
Tôi khẽ gật đầu tỏ ý tuân lệnh, nhưng đột nhiên mũi tôi ngứa ran lên như có con gì đó chui vào mũi. Tôi thử khịt khịt vài cái để giảm cơn ngứa, nhưng không sao chịu nổi, liền hắt xì thẳng vào mặt Lão Ngũ.
Tôi ngượng ngùng dùng ánh mắt để xin lỗi lão, nhưng khuôn mặt Lão Ngũ lúc này trắng bệch, cắt không ra giọt máu, đôi mắt lão hoang mang đến cực điểm, hai cánh tay bấu chặt lấy tôi và chị Giai Tuệ, khiến cả ba người chụm sát đầu lại với nhau.
Cùng lúc đó, chúng tôi nhận thấy ngay dưới chân mình là những rúng động khủng khiếp, đất cát theo đó sụt nhanh xuống khiến ba người chúng tôi chao đảo không ngừng. Ngay sau đó, lớp đất tự phân thành vô số những nhánh nhỏ, giống như những con rắn đang uốn lượn mềm dẻo. Nhưng đặt biệt là ở chỗ, chúng chỉ trượt đi trong không trung, mềm mại như những mảnh lụa, nên không hề gây cho chúng tôi khó chịu hay đau đớn.
Đầu óc tôi lúc đó cực kì hoang mang, tại sao lớp đất cát đó lại đột ngột thay đổi như thế? Một loạt tiếng động rất lớn dội lên, “bụp… bụp… bụp…” những đồi cát tự chuyển động kia vỡ toạc ra, giống như một tràng súng liên thanh khiến vô số những hạt đất cát trắng đen lẫn lộn bay ra tứ phía, bắn rào rào vào mắt kính chắn bụi mà chúng tôi đang đeo. Mọi việc diễn ra quá bất ngờ, khiến tôi sợ hãi nhắm tịt cả hai mắt lại. Nhưng tôi vẫn còn kịp thoáng nhìn thấy một vật đen sì vọt lên, kèm theo tiếng gió rít mạnh, rồi vật đó bay thẳng lên đỉnh hầm, chưa kịp định hình thì nó đã biến mất vào bóng đêm.
- Hắc ưng!
Lão Ngũ cố cắn răng giữ im lặng từ này đến giờ cuối cùng cũng phải thốt lên, giọng lão đầy vẻ sợ hãi và bất an cực độ, chiếc gương Dạ Minh rơi sấp mặt chiếu sáng xuống đất cát, cả căn hầm lập tức chìm vào bóng tối.
Do Lão Ngũ bất ngờ thốt lên, làm rơi chiếc gương Dạ Minh, nguồn sáng duy nhất vào lúc này, khiến không gian xung quanh chìm vào một màu đen kịt, mọi cố gắng trao đổi ánh mắt của chúng tôi cũng bị dập tắt trong nháy mắt.
Mặc dù vẫn được Lão Ngũ ôm chặt trong lòng, nhưng giờ đây tất cả đã chìm vào bóng tối, sự sợ hãi một lần nữa vây bủa lấy tôi. Hai bàn tay ngập trong cát của tôi quờ quạng nắm chặt lấy cạp quần của hai người kia, dường như có vậy tôi mới yên tâm được phần nào. Kể cũng lạ, sau khi con vật kia bay vút lên không trung, những nhánh cát đang chuyện động kia bỗng từ từ dừng lại.
Trong lúc não bộ tôi đang hoạt động hết công suất sau hàng loạt những sự kiện rất kỳ lạ vừa xảy ra, thì Lão Ngũ bỗng thì thầm:
- Thả tay ra đi, hai đứa có thể cử động được rồi đấy. - Giọng lão đầy vẻ tang tóc, rồi từ từ nới lỏng cánh tay đang ôm chặt chúng tôi.
Vừa rời khỏi tay Lão Ngũ, bỗng nhiên tôi thấy người trôi xa dần, giống như vừa ngã từ trên cao xuống, khiến cơ thể mất thăng bằng, bắt đầu muốn lộn ngược xuống dưới. Cũng may là lớp đất cát có lực đẩy rất mạnh, sau một hồi tay chân khua khoắng loạn lên, cuối cùng tôi đã nổi được lên.
Do mải lo việc giữ thăng bằng nên tôi quên khuấy cả việc hỏi Lão Ngũ chuyện gì đang xảy ra, thì nghe có tiếng chị Giai Tuệ vang lên bên tai:
- Lão Ngũ, làm thế nào bây giờ, con vật vừa bay lên kia có phải là hắc ưng không ạ? - Chị Giai Tuệ cách tôi khoảng chừng vài mét, có thể Lão Ngũ cũng thả tay để chị trôi tự do.
Trong bóng tối, Lão Ngũ thở dài rồi chậm rãi kể lại:
- Ừ! Cái thứ trời đánh ấy cuối cùng cũng đã thoát ra rồi. Hừm! Dưới đất không giữ được, thì ắt nó sẽ bay lên trời. Nếu như không phải do cái hắt xì của Lan Lan, thì có lẽ chúng ta đã vượt qua. Giờ chỉ còn cách đợi hứng đòn thôi. Quá… quá hay! Ầy…
Nghe Lão Ngũ nói vậy, tôi và chị Giai Tuệ lo lắng nhìn nhau, vậy theo ý của Lão Ngũ, chính cái hắt xì của tôi đã thả con Hắc ưng ra sao? Điều này thực khiến người ta khó lòng tin nổi.
Tôi vội vàng hỏi lại Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, vậy chính xác là chuyện gì đang diễn ra vậy? Đây… á… á… - Chưa nói hết câu, tôi hốt hoảng hét ầm lên. Một lực hút rất mạnh từ dưới chân đang cố kéo tôi chìm xuống, hình như lực đẩy của lớp đất cát đang yếu dần đi, chúng không còn đủ sức để giữ tôi nổi được nữa.
- Yên tâm đi, mẹ kiếp! Đấy là do lớp đất cát đang tụt xuống đấy. Hắc ưng cũng bay rồi, cỗ máy đã bắt đầu hoạt động, lớp đất cát này đã hết tác dụng. Đợi khi nào xuống mặt đất, ta sẽ cho hai đứa biết chuyện gì đang diễn ra. Mẹ kiếp! Cứ chơi vơi mãi thế này, ông đếch thấy thoải mái tí nào. - Giọng của Lão Ngũ đều đều không nhanh không chậm, nhưng có điều càng ngày càng tục tằn hơn, có vẻ lão đã bắt đầu nhận thấy mối nguy hại tiềm ẩn, xem ra cửa ải này không hề đơn giản tí nào.
Lớp đất cát nhanh chóng tụt xuống do lực đẩy dần biến mất, chỉ một lúc sau, mũi bàn chân tôi đã chạm mặt sàn, rồi từ từ đứng thẳng người lên.
Đúng chỗ tôi hạ xuống có vài tia sáng xanh le lói lách mình qua lớp cát, đó chính là tia sáng của chiếc gương Dạ Minh. Nhìn thấy nó, tôi cảm thấy yên tâm hơn hẳn, trong tình thế này, nếu như trước mắt vẫn chỉ là một màu tối đen thì thật khiến người ta cảm thấy khó chịu vô cùng.
Dù chỉ có vài tia sáng le lói nhưng cũng đủ căn phòng sáng bừng lên, tôi nhìn thấy Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đứng cách tôi không xa. Lão Ngũ nhanh chân chạy đến chỗ chiếc gương Dạ Minh, rồi sục tay vào lớp cát cầm chiếc gương lên, phủi phủi những hạt cát bám trên bề mặt. Lão giơ gương về phía hai đứa tôi rồi khoái chí nói:
- Cũng may là hạ ở đây, chứ nếu rơi vào miệng động Hắc ưng thì coi như tiêu mạng.
Tôi vẫn chưa hiểu rõ về cái gọi là động Hắc ưng mà Lão Ngũ vừa nhắc đến, đang định quay sang hỏi thì mặt sàn dưới chân lại rung lên lần nữa. Tôi vội cúi đầu nhìn xuống, lớp đất cát giờ như dòng nước óng ánh ánh bạc nhanh chóng len qua những khe nhỏ chảy xuống dưới sàn. Chỉ một lúc sau, căn hầm đầy cát đã trống trơn, toàn bộ bề mặt sàn đá không để lại một chút vết tích gì, giống như vừa có ai đó lau chùi rất cẩn thận và sạch sẽ.
Căn hầm cứ thế đưa chúng tôi từ bất ngờ này sang bất ngờ khác, tôi và chị Giai Tuệ ngơ ngác dõi theo mà không hiểu vì sao lớp đất cát kia lại có thể biến mất một cách nhanh gọn và sạch sẽ đến như vậy? Nếu như tất cả những điều kì lạ này đều được một cỗ máy bí mật nào đó điều khiển, thì chắc chắn đó phải là một cỗ máy cực kì thần diệu và vĩ đại.
Tôi vẫn còn chút hoài nghi, không dám tin vào mắt mình, liền mượn chiếc gương Dạ Minh của Lão Ngũ, ngồi sụp xuống quan sát tỉ mỉ khe rãnh giữa những phiến đá. Chị Giai Tuệ thấy vậy cũng chạy tới quan sát cùng với tôi.
Dưới ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh, tôi không tìm thấy bất kỳ dấu vết nào của lớp đất cát kia. Đưa tay ra lần khắp mặt phiến đá, thì chỉ có cảm giác mát mẻ và nhẵn thín, giống như chúng đã được mài giũa rất kỹ. Thế nhưng từ phía dưới, một luồng khí nhỏ mát lạnh đang không ngừng thổi qua khe rãnh nối các phiến đá lại với nhau. Đương lúc những phiến đá này chưa kịp khép lại với nhau, tôi nheo mắt nhòm xuống phía dưới, nhưng chỉ thấy một màu đen kịt.
Chị Giai Tuệ cũng quỳ gối, áp tai xuống mặt sàn, vẻ mặt hơi khác thường, rồi chị vẫy tôi lại gần. Tôi làm theo chị, quỳ hai gối rồi áp một bên tai xuống khe rãnh nhỏ gần đó. Luồng khí mát lạnh phả vào trong tai hơi ngưa ngứa. Thế nhưng, tôi vẫn có thể nhận ra, phía dưới sàn đá là một khoảng không rộng lớn bất thường, và từ đó không ngừng dội lên những tiếng động lạ, giống như tiếng gió vi vút thổi đến từ một nơi bằng phẳng rộng lớn như chúng tôi đang đứng.
Chị Giai Tuệ đứng dậy, nói với Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, cỗ máy này thực sự thần kỳ quá tưởng tượng, lão nhanh nói cho chúng cháu biết đi.
Lão Ngũ đang hướng mắt về một nơi xa xăm nào đó, vẻ như đang đăm chiêu, nghe tiếng chị Giai Tuệ hỏi, lão mới ngẩng đầu nhìn lên phía đỉnh hầm.
Tôi cũng bất giác ngửa cổ nhìn theo lão, trên phía đỉnh hầm vẫn là một màu đen kịt, không hiểu rằng những con hắc ưng kia đã bay về phương nào.
Lão Ngũ nhìn một hồi lâu, rồi quay sang ngó nghiêng mặt đá xung quanh, sau đó đặt đít ngồi phịch xuống sàn. Lão duỗi hai chân cho thoải mái rồi nói với chị Giai Tuệ:
- Mẹ kiếp! Mệt quá đi mất. Kiếm cái gì ăn đã, rồi ta sẽ kể cho hai đứa nghe về cái đống đất cát kia, ta luôn có linh cảm rằng sự việc này sẽ rất phức tạp mà. Phải rồi, hai đứa bay kiểm tra lại xem, áo quần hay trong giày dép có giữ được thứ gì linh tinh không, nếu có thì coi như nhặt được báu vật đấy.
Nghe lão nói vậy, tôi vội đưa tay lần khắp cơ thể tìm kiếm.
Thật kỳ quặc, lúc nãy rõ ràng lớp đất kia còn phủ kín người tôi, thế mà đến giờ trên quần áo tôi không có đến một hạt cát, thậm chí những vết bẩn trên quần áo giờ cũng biến mất theo, lẽ nào chúng lại có tác dụng như bột giặt?
Chị Giai Tuệ bỗng reo lên, rồi quay người sang phía tôi, kín đáo đưa tay lần vào trong lớp áo lót, một lúc sau chị từ từ đưa tay ra, hồ hởi nói:
- Hình như là sót vài hạt cát thật.
Lão Ngũ vội lao tới, nắm chặt bàn tay của chị Giai Tuệ rồi hốt hoảng nói:
- Nắm chặt! Nắm chặt tay vào! Đừng để nó tuột mất!
Bộ dáng kì quái của Lão Ngũ khiến tôi và chị Giai Tuệ không khỏi bật cười, mấy hạt cát bé tí ấy cũng có thể chạy mất sao? Thế nhưng nghĩ lại cảnh tượng ban nãy, tôi lập tức thấy sự lo lắng của Lão Ngũ không phải là không có lí, biết đâu những hạt cát này lại có phép thuật cũng nên.
Lão Ngũ như bắt được vàng, vẫn nắm chặt lấy tay chị Giai Tuệ, hứng khởi nói với hai chị em tôi:
- Loại cát này vốn là bảo vật vô cùng quý hiếm, không ngờ chúng lại được chôn ở dưới này nhiều như thế. Vừa nãy, ta cuống quá nên không nghĩ tới chuyện giữ lại vài nắm. May mà còn sót lại vài hạt trên người con nhỏ Giai Tuệ. Nếu như có nhiều thì chúng ta chia nhau mỗi người một hạt, khi nào ra khỏi đây thì giữ lại, xem như kỉ niệm chiến tích anh hùng. Còn nếu như ít thì xin lỗi hai đứa bây, đừng cố gắng giành giật, Lão Ngũ ta sẽ giành cho bằng được. Ha ha ha ha, hay đấy, hay đấy!
Tôi và chị Giai Tuệ cũng cười phá lên, đồng thanh nói:
- Không giành, không giành đâu, tất cả là của Lão Ngũ hết. Hi hi!
Lão Ngũ an tâm hẳn, lão từ từ gỡ từng ngón tay chị Giai Tuệ, để lộ ra ba hạt cát trắng đang tự cuộn tròn trong lòng bàn tay chị.
Tay trái lão nắm chặt cổ tay phải của chị Giai Tuệ, đôi mắt sáng quắc nhìn vào lòng bàn tay, rồi nói với vẻ ngập tràn hạnh phúc.
- May quá, vừa đủ ba hạt, mỗi người một hạt, không ai giành của ai nữa.
Tôi chiếu chiếc gương Dạ Minh vào tay chị Giai Tuệ rồi cúi đầu xuống nhìn. Ba hạt cát trắng muốt như ngọc, to bằng hạt vừng, tròn xoe và nhẵn mịn, dưới ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh, chúng tỏa sáng lung linh và không ngừng chuyển động.
Lão Ngũ khẽ lắc đầu, ngó chằm chằm vào chúng với vẻ hí hửng thấy rõ, một lúc sau lão mới quay sang nói với chúng tôi:
- Để ta cho hai đứa bay xem tuyệt chiêu này! - Nói rồi, tay phải của lão bỗng lắc nhẹ, ba hạt cát trắng tự chuyển động tròn trong lòng bàn tay chị Giai Tuệ, rồi trượt đi mỗi lúc một nhanh hơn, theo những đường chỉ tay di chuyển khắp mọi hướng, cứ như ba con trùng nhỏ đang tinh nghịch bò đi khắp nơi.
Thấy chúng có vẻ muốn tìm đường thoát ra ngoài, Lão Ngũ vội khép chặt tay lại, rồi phấn khích ngẩng đầu hỏi chúng tôi:
- Thế nào, hay không?
- Hay, hay… - Tôi vội kéo tay Lão Ngũ, dò hỏi. - Lão Ngũ, chúng là sinh vật sống thật sao, chúng từ đâu ra thế?
Lão Ngũ vừa cười vừa quay sang nói với chị Giai Tuệ, không thèm đếm xỉa gì đến tôi:
- Lấy đồ ra ăn đi, chúng ta phải ăn chút gì đã, rồi ta sẽ kể về lũ đất bay cát chuyển cho hai đứa bay nghe.
Chị Giai Tuệ lấy ra ba gói lương khô và ba chai nước khoáng đưa cho tôi và Lão Ngũ. Chúng tôi ngồi khoanh chân trên sàn đá, vừa ăn lương khô vừa nghe Lão Ngũ kể chuyện.
Lão Ngũ chiêu một ngụm nước lớn rồi chậm rãi kể:
- Giờ nói đến cái gọi là cát bay trước nhé, Giai Tuệ, chắc mi cũng biết huyện Cẩm thành phố Cẩm Châu, đúng không?
- Huyện Cẩm? - Chị Giai Tuệ suy nghĩ một lúc rồi mới ngần ngừ nói. - Lão Ngũ, lão đang nói đến địa danh Lăng Hải đúng không? Huyện Cẩm là tên cũ, giờ nó đã được lên cấp thành phố rồi mà.
- Ừ, ta cũng nghe nói nó đã đổi thành cái tên gì gì đó, nghe chói tai không chịu được. - Lão Ngũ quay sang nói với tôi, nói tiếp. - Huyện Cẩm… hay còn gọi là Hải Lăng, nó là một huyện nhỏ nằm phía dưới chân Cẩm Châu, vốn được gọi là tòa thành cổ từ nhiều đời nay.
Rồi lão vỗ nhẹ lên trán như muốn lục tìm điều gì đó trong trí nhớ.
- Những thứ khác về huyện Cẩm ta không nhắc đến, chỉ muốn nói một nơi nhỏ bé như vậy mà lại có thể sản sinh ra cát bay, một loại bảo vật vô cùng hiếm có trên thế gian này. Trong huyện Cẩm có xã Thạch Sơ chuyên sản xuất đá xây dựng, chủ yếu là đá hoa cương, từ bao đời nay dân xã này đã sinh sống bằng nghề khai thác và sản xuất đá hoa cương cho tới tận bây giờ, nghe nói sau khi Trung Quốc mới được thành lập, nhà nước đã cho vận chuyển đá hoa cương ở đây để xây dựng quảng trường Thiên An Môn.
- Sau khi Trung Quốc mới được thành lập… - Chị Giai Tuệ nhắc lại với vẻ mặt rất đỗi ngạc nhiên. Tôi cũng cảm thấy tò mò, không nhịn được phải hỏi lại.- Tại sao lại liên quan đến việc Trung Quốc mới thành lập, Lão Ngũ… lẽ nào Cố Cung ở Bắc Kinh cũng có bí mật như thế này sao?
- Mẹ kiếp! Chúng bay nghĩ xa xôi thế! - Lão Ngũ lắc đầu ra chiều bực bội vì bị ngắt lời rồi nói tiếp. - Nghe sư phụ ta kể lại rằng, hình như từ thời Minh Thành Tổ[1], sau khi dẹp loạn, thống nhất đất nước, ông ta đã quyết định đóng đô tại Nam Kinh và đã ra lệnh vận chuyển đá hoa cương tới đó để xây cung điện. Lúc đó, vùng đấy gọi là huyện Cẩm hay Thạch Sơn, ta cũng không rõ, dù sao ranh giới ở vùng đó cũng không thay đổi là mấy. Minh hoàng đế đã ra lệnh tất cả mọi ngóc ngách dù là nhỏ nhất trong cung điện đều phải lát bằng đá hoa cương của huyện Cẩm. Phải mất một lượng nhân công rất lớn để phục vụ cho công trình kiến trúc khổng lồ này, hàng vạn người đã phải vất vả ngày đêm khai thác, chạm trổ đá hoa cương tại vùng này. Trong lúc khai thác, người ta đã vô tình đào được một tảng đá khá lớn ngay giữa lòng núi, nó có màu trắng đục rất giống ngọc. Hằng trăm thợ đá có tay nghề và kinh nghiệm lâu năm cũng không rõ đây là loại đá gì. Điều ngạc nhiên hơn cả là, khi tảng đá này rơi xuống, đã vỡ thành hàng trăm nghìn hạt cát nhỏ li ti như hạt vừng, mỗi viên đều tròn xoe, nhẵn nhụi như được mài giũa công phu...
[1] Tức Chu Nguyên Chương, người sáng lập ra vương triều nhà Minh.
Nghe thấy vậy, chị Giai Tuệ nhanh miệng hỏi lại:
- Đó có phải là cát bay không ạ?
Lão Ngũ gật đầu, kể tiếp:
- Nghe ta nói hết đã. Những người thợ đá đều cảm thấy hết sức ngạc nhiên, có người đã gắn bó cả đời với nghề khắc đá mà đây cũng là lần đầu tiên được chứng kiến sự việc lạ lùng đến vậy. Lúc đó, một vị quan phụ trách việc khai thác đá là Lưu Bác Ôn, nghe nói ông ta cũng là một người có biệt tài tiên đoán tương lai, nên được nhân dân vinh là thánh sống, sau khi tận mắt nhìn thấy đống cát kì lạ này, ông đã lập tức tuyên bố đây chính là loại tinh cát vô cùng hiếm có.
Nghe Lão Ngũ nhắc đến tên Lưu Bác Ôn, đầu óc tôi lờ mờ nhận ra đó là một cái tên khá quen, vội nói chen vào:
- Lão Ngũ, cháu biết Lưu Bác Ôn là ai rồi, hồi cấp Một, cháu đã được học một bài tập đọc có tên là Người bán mía, tác giả chính là Lưu Bác Ôn, nội dung là về cá vàng cá bạc gì gì đó, cô giáo cháu còn giảng thêm Lưu Bác Ôn chính là người giúp Minh Thành Tổ Chu Nguyên Chương dẹp loạn và giành được ngai vàng.
Lão Ngũ vốn là người không được học hành gì, nên chỉ lắc đầu, cười xòa, nói:
- Bán gì thì bán, cá gì thì cá, ta không quan tâm, ta chỉ biết người này là một vị thánh sống.
Chị Giai Tuệ vừa vịn vai tôi vừa cười nắc nẻ, nói:
- Đúng là nàng ngốc, cái gì mà bán mía với bán khoai, nghe là đã biết lười học rồi. Bài văn đó có tên là Lời người bán cam rong, kể về câu chuyện của một người bán cam.
Tôi và Lão Ngũ đều là những người ít học, chỉ biết mấy chuyện mở khóa, chứ những thứ như kiến thức văn học hay điển tích thì chẳng biết là bao. Tôi không rõ lời giải thích của chị Giai Tuệ lắm, nhưng có vẻ như là chính xác. Mặt tôi đỏ ửng lên vì xấu hổ, ngại ngùng nói:
- À, thì ra là bán cam, em lại cứ tưởng là bán mía cơ đấy.
Lão Ngũ hắng giọng kéo sự chú ý của chúng tôi về phía mình, rồi kể tiếp:
- Mặc mẹ nó bán cái gì, chỉ biết rằng Lưu Bác Ôn sau khi nhìn thấy những hạt cát trắng này liền tuyên bố, đây chính là loại tinh cát có tìm hàng trăm năm cũng không thấy, rồi lập tức sai quân lính gói hết lại, tự mình mang về báo cáo với Chu Nguyên Chương. Câu chuyện sau đó mới gay cấn, chỉ vài ngày sau, quân triều đình lại được lệnh tiếp tục khoét sâu vào lòng núi, họ tìm ra những tảng đá trắng khác và phải mất một năm ròng mới khai thác hết mỏ đá trắng quý hiếm kia. Nhưng chỗ cát trắng đó được vận chuyển đi đâu thì không ai biết, hơn nữa, tất cả những người thợ trực tiếp khai thác đá đều bị chặt đầu, còn đám binh sĩ thì bị đày đi biên giới, ngay cả bản thân Lưu Bác Ôn cũng không có kết thúc tốt đẹp gì, chỉ vài năm sau ông ta đã bị Chu Nguyên Chương sát hại.
Tôi nghe mà choáng váng cả người, lập tức mở miệng thắc mắc:
- Lão Ngũ, nói đi nói lại, những viên tinh cát kia là cái gì, tại sao vì nó mà phải giết hại bao nhiêu người như vậy.
Lão Ngũ lắc đầu rồi nói tiếp:
- Sự tình như thế nào ta cũng không rõ, có lẽ đó là một loại bảo vật vô cùng quý hiếm, hoặc nó có những công dụng khác mà ta vẫn chưa biết, nếu không Chu Nguyên Chương đã không thể giết nhiều người như thế. Về lịch sử của loại Cát bay này, ta nghe sư phụ kể từ rất lâu rồi, nhưng đó cũng chỉ là những lời người được nghe kể lại từ tổ tiên, chỉ biết chắc rằng đó là một loại bảo bối vô cùng lợi hại. Vừa xong hai đứa bay đều nhìn thấy rồi đấy, những viên cát trắng đó chính là tinh cát, hay còn gọi là cát bay, điểm kì diệu nhất của chúng chắc có lẽ là khả năng tự chuyển động như một sinh vật sống, ngoài ra bản thân nó còn có thể tự sản sinh ra một lực đẩy rất mạnh. Đặc biệt là khi kết hợp với Đất chuyển, cho dù là vật nặng cỡ bao nhiêu, nó vẫn có thể khiến trôi bồng bềnh như trong nước vậy. Còn một điều nữa, chúng tuy có sức mạnh kì diệu là thế, nhưng lại rất sợ tiếng động và va chạm, chỉ cần một tiếng động nhỏ thôi cũng khiến mối liên kết của chúng bị đứt gãy trong tức khắc. Lúc nãy, vừa nhìn thấy chúng là ta đã nhận ra ngay, nên mới bảo chúng bay phải bám chặt vào ta, không được động đậy cũng như không được thốt ra bất cứ lời nào, thế nhưng tiếng hắt xì của Lan Lan đã làm kinh động tới chúng, vô tình thả con hắc ưng xổng ra.
Nghe Lão Ngũ nói vậy, lòng tôi cực kì lo lắng, cát bay đã lợi hại như vậy thì không biết lũ hắc ưng kia còn ghê gớm tới mức nào nữa? Tôi vội ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, vẫn là một khoảng không vắng lặng, không rõ lũ hắc ưng đang trốn ở đâu?
Bỗng có tiếng chị Giai Tuệ nói với Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, cho cháu xem lại mấy hạt cát bay kia với.
Lão Ngũ cẩn trọng hé lòng bàn tay lấy ra một hạt đưa cho chị Giai Tuệ rồi nói:
- Cầm lấy, đừng có làm rơi đấy.
Chị Giai Tuệ cũng cẩn thận không kém, giữ chặt hạt cát giữa hai đầu ngón tay, qua ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh, chị nghiêng nghiêng đầu ngắm nghía thật kỹ. Một lúc sau, chị vê vê đầu ngón tay rồi nói với tôi:
- Cái này hay lắm, không rõ nó làm từ chất liệu gì, không hề giống với bất kỳ loại đá nào trước đây mà ta từng nhìn thấy. Nhưng cháu nghĩ rằng đó là kết quả của sự biến hóa môi trường qua hàng nghìn năm, ví dụ như do lực nén hay nhiệt độ môi trường khiến chúng bị thay đổi kết cấu vật lí. Hai người chắc đều biết kim cương và đá graphite chứ, chúng đều được cấu thành từ nguyên tử cacbon nhưng bề ngoài của chúng lại có sự khác biệt rất lớn. Một thứ thì cứng tuyệt đối với vẻ ngoài trong suốt, còn một cái thì lại rất mềm với một màu đen tuyền. Nguyên nhân là do thành phần và cấu trúc của nguyên tử cacbon trong kim cương và đá graphite không giống nhau.
Lão Ngũ nghe lời giải thích của chị Giai Tuệ thì liền gật đầu tán thành:
- Ừ, mi nói hình vuông hình tròn gì thì ta không hiểu lắm, nhưng về kim cương với đá graphite thì ta biết rõ, hai đứa nhìn đây. - Nói rồi, lão rút chuỗi hạt Ô Kim từ trong túi ra. - Cái này làm từ kim cương và đá graphite ra đấy, lúc cứng lúc mềm, ta đoán đó là nhờ vào cái thành phần cấu trúc gì gì đó mà mi vừa giải thích đấy.
Chị Giai Tuệ nhìn chuỗi hạt rồi nói:
- Cũng có thể là vậy. Vừa rồi nghe lão kể về chuyện cát bay với Lưu Bác Ôn, cháu đã lờ mờ hiểu được chút ít, đúng như lời lão vẫn nói, dưới cung này chắc chắn còn rất nhiều chuyện kì lạ đang xảy ra.
Tôi hỏi xen vào:
- Chuyện gì cơ, lẽ nào đám đất cát này lại nhiều chuyện kỳ quái đến vậy sao?
Chị Giai Tuệ lắc đầu, nói tiếp:
- Hai thứ cát này lạ lắm, nhưng chủ yếu vẫn là… - Chị dừng lại một lúc rồi mỉm cười nói với Lão Ngũ. - Đấy là cháu đoán bừa thế thôi, Lão Ngũ kể tiếp về loại Đất chuyển kia đi.
Lão Ngũ nhìn ra xung quanh, gật đầu nói:
- Với tình hình này, xem ra lũ Hắc ưng tạm thời sẽ không làm phiền tới chúng ta đâu. Thôi được, để ta kể chuyện cho hai đứa bay nghe để giết thời gian vậy.
Lão cắn một miếng lương khô, rồi uể oải chuyển sang tư thế khác một lúc rồi mới từ từ kể tiếp:
- Loại Đất chuyển kia thực ra cũng có mối liên qua đến vùng đất Đông Bắc này. Hai đứa có biết vì sao ba tỉnh Đông Bắc lại được gọi là vùng đất đen hay không? Điều này bắt nguồn từ ba vùng đất lớn là Hắc Long Giang, Nộn Giang và Tùng Hoa Giang, những vùng đất này đều được phủ bằng lớp đất đen dày xốp và phì nhiêu, nên hoa màu luôn cho vụ mùa bội thu. Trong đó vùng màu mỡ nhất là vùng phía bắc Hắc Long Giang, nghe nói lớp đất ở đấy dày tới hơn một mét, được khai phá từ thời nhà Thanh. Sau đó, thằng chó Tổng binh Sơn Hải quan Ngô Tam Quế đã vì con nha đầu Trần Viên Viên mà dẫn bọn cẩu Thanh vượt qua cửa ải, trơ mắt cam chịu để bọn nó cướp mất giang sơn, mẹ kiếp, toàn lũ ăn hại…
Từ khi cùng Lão Ngũ vào trong lòng Cố Cung, tôi đã cảm thấy hình như lão có một mối thù không đội trời chung với nhà Thanh, giờ nghe những lời miệt thị này, tôi lại càng khẳng định những ý nghĩ ban đầu của mình là đúng. Thế nhưng có một điều tôi vẫn không sao hiểu nổi, tại sao lão lại mang nỗi hận thù lớn đến như thế với những người đã khuất núi từ lâu?
Đúng lúc đó, tôi nghe thấy tiếng chị Giai Tuệ ho nhẹ, liền vội quay đầu nhìn sang, thấy sắc mặt chị nhợt nhạt nên vội vàng hỏi:
- Chị Giai Tuệ, chị làm sao thế? Trong người không khỏe sao?
Chị Giai Tuệ cười xòa rồi nói:
- Chị không sao, chắc do lúc nãy nhiệt độ thay đổi thất thường, lúc lạnh lúc nóng, nên họng chị hơi đau rát một chút. Lão Ngũ cứ kể tiếp đi. - Nói rồi chị cởi chiếc áo đang buộc quanh eo, khoác lên vai.
Tôi cũng không để ý nữa mà quay sang nghe Lão Ngũ kể chuyện:
- Sau khi quân Thanh chiếm thành, chúng đã quy hoạch và biến nơi đây thành vùng đất cấm, ngày đêm có lính canh gác với lí do bên trong có chứa long mạch.
- Long mạch? - Nghe thấy có “long mạch”, tôi bỗng hào hứng hẳn lên, rồi lập tức liên tưởng tới bộ phi Lộc Đỉnh Ký do Huỳnh Hiểu Minh thủ vai chính, hình như nội dung phim cũng nhắc đến long mạch. Tôi vội vàng hỏi lại. - Có phải là một loại bảo bối không ạ?
Lão Ngũ gật đầu.
- Bảo bối hay không thì ta không dám chắc, chỉ có điều sau khi chiếm được thành, bọn lính đã chém giết tất cả, nên chắc chắn ở đó có không ít vật báu đâu, thế nhưng sau đó những thứ này được chuyển đi đâu thì không ai có thể đoán ra. Có lẽ lũ cẩu quan đã luồn chúng qua một đường hầm bí mật, vì sợ rằng nếu để lại đây thì chẳng mấy chốc sẽ bị đánh cắp, nếu không thì niêm phong thành lại làm gì? Cái thứ long mạch của nợ đó, chắc chỉ là cái cớ.
Chị Giai Tuệ ngẫm nghĩ một lúc rồi lầm bầm:
- Hoặc chính là cái cớ! - Giọng chị có vẻ hoang mang.
Lão Ngũ xua tay ra chiều không quan tâm rồi nói tiếp:
- Thời đó, trong thành vô cùng náo loạn, chẳng có người dân nào muốn tôn tên đầu trọc tết tóc kia làm hoàng đế cả, cả đất nước hỗn loạn, khắp nơi nổ ra bạo loạn. Vài nhân vật trong giới giang hồ cũng không thể ngồi yên, đám đạo tặc thì ra sức mài gươm vào thành ăn trộm, thậm chí còn hi vọng chặt đứt long mạch của bọn chó Thanh, họ đều đồng lòng phản Thanh phục Minh, vì một đất nước bình yên. Cho dù bên trong không có long mạch thì nhất định cũng phải cất giấu vô số vàng bạc và châu báu, nếu thành công thì có thể ăn sung mặc sướng cả đời. Thế nhưng bao nhiêu năm trôi qua, đã rất nhiều người ra đi mà không thấy bóng dáng một ai sống sót trở về chứ đừng nói gì đến đống của cải “tăm” được. Cho tới năm Sùng Trinh niên nguyên, Bả Thế Gia đại thúc Lão Cửu quyết định đích thân tìm kiếm thì đến lúc đó loại bảo bối vô cùng quý hiếm này mới được lộ diện.
Chị Giai Tuệ nghe vậy, liền sốt sắng hỏi lại:
- Lão Ngũ, theo như những gì lão vừa kể thì loại bảo bối Đất chuyển kia là do những người trong phái Đạo môn tìm ra tại Bắc Đại Hoang[2] từ rất lâu rồi?
[2] Chỉ vùng bình nguyên Đông Bắc với ba tỉnh Hắc Long Giang, Tùng Hoa Giang và Nộn Giang.
Chưa kịp để lão trả lời, tôi đã vội cướp lời chị hỏi tiếp:
- Lão Ngũ, cháu thấy cách phân thứ bậc trong Đạo môn rất lạ, tại sao phải phân thành lão này lão kia vậy. Lão là Lão Ngũ, nhưng em trai lão lại là Lão Tam, đây chẳng phải là ngược đời sao? Hơn nữa, tại sao gọi Bả Thế Gia là đại thúc Lão Cửu? Phải dựa vào quy tắc gì vậy ạ?
Chị Giai Tuệ cũng gật đầu rồi hỏi tiếp:
- Đúng thế, Lão Ngũ, có phải Đạo môn phân thứ bậc theo số không? Vậy thì người được gọi là Bả Thế Gia có nghĩa là gì ạ?
Lão Ngũ mỉm cười, vuốt chòm râu, nói:
- Theo quy tắc của môn phái thì ta không được phép tiết lộ bí mật này cho bất kì kẻ ngoại đạo nào, đặc biệt con nhỏ Giai Tuệ còn là cảnh sát, các ngươi thừa hiểu cảnh sát và đạo chích không bao giờ đi chung một đường. Thế nhưng, ông trời đã có duyên để ta và hai đứa gặp nhau, trong mắt ta hai đứa bay chẳng khác gì con cháu cả. Vả lại chúng ta cũng đã vào sinh ra tử mấy phen, vậy hôm nay ta sẽ phá giới giải thích cho hai đứa hiểu rõ.
Thấy Lão Ngũ đồng ý tiết lộ bí mật, tôi vội dỏng tai tập trung lắng nghe những lời của lão. Thực ra về bản chất, Kiện môn ban đầu cũng là một nhánh trong phái Đạo môn, lúc học về lịch sử mở khóa, ông nội tôi cũng đã giới thiệu qua lai lịch cũng như những thủ thuật của phái Đạo môn, nhưng sau khi phân thành các phái khác nhau thì những thông tin cũng không còn nhiều và cụ thể cho lắm. Hôm nay được chính một cao thủ trong phái Đạo môn kể lại hẳn là một cơ hội hiếm có.
Lão Ngũ bắt đầu kể về lịch sử môn phái:
- Trong Đạo môn trừ mối quan hệ giữa sư phụ và đồ đệ là không thể thay đổi được ra, tất cả những người khác đều phải phân định ngôi thứ theo tay nghề cao cấp. Người có kĩ thuật xuất chúng được gọi là Bả Thế, còn những vị trí cao thủ trong phái thì được tôn xưng là Bả Thế Gia. Bả Thế đại để được phân thành ba bậc, trong mỗi bậc lại phân thành ba cấp, mỗi cấp lại phân ra hai loại thủ thuật. Nói tóm lại, Bả Thế được phân thành tam phẩm cửu giới thập bát thuật.
Tôi nghe mà thấy vô cùng hào hứng, chỉ tính riêng thứ bậc thôi mà đã phân thành nhiều như thế, chả khác gì cấp bậc quan lại trong triều vậy. Tôi bỗng nhớ ông nội cũng đã từng kể, mở khóa là một trong mười tám thuật của Đạo môn, vậy mười bảy thuật còn lại là gì?
Lão Ngũ say sưa giảng giải:
- Hai đứa bay không biết đấy chứ, người trong phái Đạo môn kị nhất là nhắc đến chữ “ăn trộm”, nó chẳng đẳng cấp gì cả, chỉ có bọn lưu manh trộm gà, trộm chó ngoài đường thì mới gọi là ăn trộm, ăn cắp thôi. Còn bọn ta lại dựa vào vật lấy được để phân thành ba cấp độ, đó là Thủ, Thiết, Đạo. Cấp độ đầu tiên là Thủ hình, là những vật mang hình dạng cố định có thể nhìn bằng mắt, sờ bằng tay. Cấp độ thứ hai là Thiết lưu, là những vật không có hình dạng cố định. Loại này khó hơn nhiều, ví dụ những vật khó nắm bắt như nước, lửa, gió hay những vật dạng bột; mặc dù ta vẫn có thể nhìn thấy nhưng lại không thể chạm vào hay lưu chuyển nó. Cấp độ thứ ba là Đạo ý, là những thứ vô hình vô dạng. Cấp độ này vốn rất khó, thậm chí người ta cũng không thể biết mình vừa bị mất thứ gì. Còn về cửu giới và thập bát thuật thì ta không nói nữa, toàn những thứ rắc rối, nói các ngươi cũng không hiểu được đâu.
Tôi vội vàng cắt ngang lời lão:
- Thuật mở khóa chính là một trong mười tám thuật của Đạo môn, cái này thì cháu biết.
Lão Ngũ quay sang mỉm cười với tôi, rồi gật đầu nói tiếp:
- Riêng thuật mở khóa từ lâu đã tự tách ra lập nên một phái riêng. Cứ từ từ, để ta kể tiếp đã. Dựa vào thuộc tính của vật bị đánh cắp mà phân thành Thủ thực, Thiết hư và Đạo không. Phải rồi, hay đứa bay đã từng nghe đến câu “Diệu thủ không không” chưa, thực ra câu đó mang hàm ý về cảnh giới Đạo không rất rõ, tức là dùng thủ đoạn vô cùng thần diệu để giành lấy những vật huyễn hoặc. Theo như ta được biết, từ xưa cho đến nay chỉ có duy nhất một người luyện được tới cấp Đạo không, đó chính là Bả Thế Gia đại thúc Lão Cửu. Nhưng, như ta đã nói về giới hạn vô hình của cấp Đạo không, thực hư thế nào cũng không ai nhìn thấy, nên cũng chẳng ai có thể nói rõ được, và tài nghệ của Bả Thế Gia đại thúc Lão Cửu cao siêu tới mức nào không ai biết rõ cả.
Nghe Lão Ngũ giới thiệu về các cấp độ của Đạo môn, tôi biết thêm được rất nhiều kiến thức, thế nhưng chúng lại quá phức tạp khiến tôi cảm thấy riêng sự phân cấp thôi cũng đã không hề đơn giản như trong phái Kiện môn chúng tôi.
Tôi suy nghĩ một lúc, rồi hỏi lại lão:
- Lão Ngũ, vậy cấp Đạo không trong Đạo môn có giống với cấp Thiên giới của Kiện môn không ạ? Cấp Thiên giới dùng linh hồn để lấy những thứ mình muốn, cũng như cấp Đạo không lấy những thứ vô hình vô dạng. Giờ nghe lão giảng giải, cháu càng khẳng định chúng chắc chắn có một mối liên quan nào đó.
Lão Ngũ gật gù, nói:
- Ừ, mặc dù mỗi phái đều có những nét đặc thù riêng, thế nhưng dù sao cũng cùng chung cội nguồn, nên có lẽ sẽ mang nhiều nét tương đồng, ta nghĩ rằng Đạo khôngvà Thiên giới thực sự có một vài điểm chung… Đúng rồi, đã có lần ta hỏi ông nội mi đã đạt tới cấp Thiên giới hay chưa, thế nhưng lão già đó chỉ cười trừ rồi lảng sang chuyện khác, trước sau nhất định không chịu hé răng thế nhưng nhìn phong thái tự tin của lão, ta đoán trình độ của lão không kém Thiên giới là bao xa…
Giọng nói của Lão Ngũ cứ sang sảng bên tai, lão thản nhiên nhắc đến ông nội khiến lòng tôi như chùng xuống, xuống địa cung đã lâu rồi mà vẫn chưa tìm ra dấu vết nào của ông, không biết bây giờ ông đang ở đâu, ông có còn sống trên cõi đời này nữa hay không?
Chị Giai Tuệ rất nhạy cảm, nhìn sắc mặt tôi thay đổi, chị bóp chặt một bên vai tôi như muốn an ủi, rồi lên tiếng chuyển chủ đề khác.
- Lão Ngũ, nghe lão giảng giải về tam cửu giới thập bát thuật, cháu đoán lão đang ở cấp bậc thứ hai của Thiết lưu, hay nói dễ hiểu hơn là đứng hàng thứ năm trong cửu giới, đúng không ạ?
Lão Ngũ đưa tay lên vuốt chòm râu lưa thưa dưới cằm, thở dài một tiếng rồi nói:
- Điều đó không sai. Thế nhưng mà, mẹ kiếp, quan tài sắp đóng tới cổ rồi, mới đạt tới cấp năm, xem ra thiên phận của ta chỉ tới vậy mà thôi.
Chị Giai Tuệ cười trừ, đang định mở miệng khuyên nhủ lão vài câu, thì Lão Ngũ đã lập tức nói tiếp:
- Thế nhưng cả cái nước Trung Quốc này, Lão Ngũ ta vẫn là số một, ta không hề nói khoác đâu, ít nhất thì ta chưa từng nghe thấy có kẻ nào dám vỗ ngực tự xưng là Lão Lục. Mẹ kiếp, nếu có thật thì cũng hay đấy!
Thấy vẻ đắc thắng của Lão Ngũ, tôi cười thầm trong bụng, hóa ra ông già này cũng hiếu thắng như trẻ con.
Chị Giai Tuệ liền nói hùa theo:
- Lão Ngũ, cháu có đọc một cuốn sách, trong đó có viết rằng muốn tu luyện đạo thuật, người ta sẽ buộc lên hình nộm rất nhiều quả chuông, sau đó dựa vào tiếng chuông có phát ra hay không để nhận biết trình độ của người đó, không biết chuyện này có thật không ạ?
Lão Ngũ lắc đầu quầy quậy, cao giọng phản đối:
- Toàn trò mèo! Buộc chuông vào người, lại còn sáu mươi tư, bốn mươi tám quả chuông, toàn tin đồn vớ vẩn. Mẹ kiếp! Cứ cho là có đi chăng nữa thì cũng là trò lòe thiên hạ của bọn trộm cắp, lưu manh tép riu thôi. Những cao thủ thực sự trong Đạo môn phải biết sử dụng thuần thục các loại bảo bối, có được bao nhiêu bảo bối thì phải mang theo trên người bấy nhiêu.
- Vậy rốt cuộc thì họ tu luyện thế nào ạ? - Tôi càng ngày càng thấy hào hứng với phái Đạo môn, không nén được tò mò đành phải căn vặn Lão Ngũ.
Lão Ngũ cười khoái chí.
- Cái này thì không thể tiết lộ được, các cụ vẫn thường nói, không thể tiết lộ thiên cơ cho người ngoại đạo, ha ha… Nhưng ta sẽ cho hai đứa bay tận mắt chứng kiến thế nào là Thủ hình và Thiết lưu.
Tôi và chị Giai Tuệ gật đầu đánh rụp rồi mở to mắt để xem Lão Ngũ trổ chút tài nghệ.
Lão ngó sang hai bên, rồi nhấc chai nước lọc đã uống quá nửa lên, nói:
- Ở đây chẳng có gì khác, lấy tạm cái này làm ví dụ vậy.
Nói rồi lão bóp méo chai nước, kẹp nó vào hõm giữa ngón cái và ngón trỏ, ấn chặt vài cái, rồi quay sang cười khoái chí:
- Bắt lấy! - Cổ tay lão hơi nghiêng một góc bốn mươi lăm độ, ném chai nước cho chị Giai Tuệ.
Tôi vội nhìn theo thì thấy chị Giai Tuệ đã cần chai nước trong tay, thế nhưng lớp nylon in nhãn hiệu cuốn quanh vỏ chai đã biến mất.
Từ lúc bắt đầu, tôi không rời mắt khỏi Lão Ngũ, nhưng không tài nào biết lão đã bóc lớp nylon đó như thế nào, và giấu nó ở đâu.
Lão Ngũ cười hứng khởi và nói:
- Đã nhìn thấy chưa, đây mới chỉ là cấp độ đầu tiên trong Đạo môn thôi đấy. - Nói rồi lão lấy lại chai nước trong tay chị Giai Tuệ, vặn chặt nắp chai, rồi dốc ngược chai nước xuống xóc vài lần.
Lão Ngũ bỗng ngửa cổ lên, hai mắt nhìn thẳng lên đỉnh đầu, miệng lẩm bẩm câu gì đó. Nước trong chai bị lắc kêu sòng sọc, âm thanh đó bỗng nhiên nhỏ dần rồi hoàn toàn biến mất. Chai nước trống không, trong khi nắp chai vẫn đóng chặt.
- Nhỏ Giai Tuệ, đây chính là cấp độ thứ hai, Thiết lưu đấy. - Lão Ngũ nói với giọng dương dương tự đắc.
Chứng kiến Lão Ngũ trổ tài, tôi thật khó có thể tưởng tượng được rằng, phái Đạo môn lại có những thủ thuật thần kì đến như vậy.
Chị Giai Tuệ bỗng lên tiếng hỏi lão:
- Lão Ngũ, lần trước khi cháu và Lan Lan vào tù gặp lão, lão đã dùng chiêu này để xé chiếc cốc giấy đúng không ạ?
Lão Ngũ gật đầu, trả lời:
- Ừ, khi đó ta muốn thử khả năng quan sát của Lan Lan, nên mới làm vậy. - Nghỉ một lúc, lão lại hỏi tôi. - Nhóc con, ông nội mi chắc vẫn chưa truyền cho mi thuật Đạo môn đúng không?
Tôi lập tức lắc đầu, thành thật nói:
- Chưa ạ, ông nội cháu mới chỉ nói qua thôi, còn đâu chủ yếu vẫn là dạy cháu kỹ thuật mở khóa thôi.
Lão Ngũ liền nói:
- Nhìn cái mặt ngơ ngác của mi là ta biết ngay lão Sở vẫn chưa dạy những thủ thuật này. Mi biết không, ông nội mi cũng được coi là cao thủ trong phái Đạo môn đấy, hồi xưa chính lão cũng đã dạy cho ta những chiêu thức đầu tiên. Theo như đánh giá của ta, lão Sở ít nhất cũng đạt tới bậc ba của cấp một, tính ra thì cũng có thể gọi là Lão Tam. Lão có rất nhiều khả năng khác, sao không dạy cho mi nhỉ, sợ cái mẹ gì chứ. Nhưng thôi, đợi đến khi chúng ta thoát ra khỏi đây, Lão Ngũ ta sẽ đích thân dạy cho mi, hơn nữa mi cũng đã đạt tới cấp độ Địa Kiện rồi thì học chúng cũng không khó khăn lắm đâu. Chà chà, nhóc con, mi cũng được tạo hóa ưu đãi lắm đấy, nếu mi học thành công cả phái Kiện môn lẫn phái Đạo môn thì trên thế giới này có loại khóa nào hay cánh cửa nào có thể cản được mi nữa chứ?
Nói xong câu này, lão nhìn thẳng vào mắt tôi, khuôn mặt lộ rõ vẻ thách thức, liếm liếm hai môi, dương dương tự đắc như muốn tôi quỳ xuống, dập đầu nhận lão làm sư phụ ngay vậy.
Tôi chun chun mũi, trề môi nói với vẻ không được vui cho lắm:
- Lão Ngũ, theo như lão nói thì sẽ chẳng có loại cửa hay loại khóa nào có thể cản đường cháu ư, làm gì tới mức thế, liệu lão có tâng bốc cháu quá không vậy?
Chị Giai Tuệ cũng hào hứng không kém, nhưng thấy tôi nói vậy, chị đành lên tiếng giảng hòa:
- Lão Ngũ, tài nghệ của lão đã khiến bọn cháu được mở mang tầm mắt, việc nhận Lan Lan làm đệ tử hay không thì đợi khi ra khỏi đây hẵng nói tiếp đi. Đúng rồi, vậy Bả Thế Gia đại thúc Lão Cửu khi phát hiện ra loại đất chuyển này thì chuyện gì đã xảy ra, lão vẫn chưa kể xong mà.
Lão Ngũ ngửa mặt lên cười ha hả rồi nói:
- Được rồi, ta kể tiếp. Sau khi chứng kiến nhiều vị Bả Thế Gia ra đi mà không trở về, đại thúc Lão Cửu không tin chuyện đó là thật, nên đã đẫn theo năm đệ tử cùng mình rời thành, tiến thẳng tới Bắc Đại Hoang[3]. Ba năm cứ thế trôi qua mà chẳng thấy có động tĩnh gì, không biết họ còn sống hay đã chết. Sau khi Lão Cửu mất tích, tất cả các huynh đệ từ Bắc tới Nam đều đứng ngồi không yên, họ họp nhau lại, quyết định kể cả phải xới từng tấc đất, phá tan long mạch của bọn Mãn Thanh thì cũng phải tìm cho ra Lão Cửu.
[3] Vùng đất phía Bắc tỉnh Hắc Long Giang - Trung Quốc.
Chị Giai Tuệ ồ lên đầy ngạc nhiên, rồi hỏi tiếp:
- Lão Ngũ, có phải Lão Cửu là người rất được trọng vọng trong Đạo môn không?
Lão nghe chị hỏi vậy liền nhếch mép cười khinh bỉ, nói:
- Mi nghĩ rằng cái lũ đấy thực lòng lo cho sự an nguy của người khác hay sao, chúng làm vậy cũng chỉ vì tín vật của Đạo môn mà Lão Cửu đang nắm giữ thôi.
Nghe đến hai chữ “tín vật”, tôi bỗng chột dạ, sờ lên cặp tỳ hưu đang đeo trên cổ, thắc mắc:
- Lão Ngũ, tín vật của Đạo môn cũng là cặp tỳ hưu ngọc hay sao?
Lão Ngũ lắc đầu, trả lời:
- Không nhiều đến thế đâu, chỉ là một mảnh ngọc bội màu đỏ, thế nhưng ý nghĩa của nó cũng gần giống như cặp tỳ hưu ngọc của mi vậy, nó là của tổ tiên truyền lại qua bao đời nay. Có được miếng ngọc bội này trong tay đồng nghĩa với việc mi sẽ là người đứng đầu môn phái, và tất cả mọi môn đệ trong phái đều phải tuân theo sự chỉ đạo của mi. Thời bấy giờ, môn phái phát triển rất mạnh, số lượng môn đệ không ngừng gia tăng, thậm chí đến các quan phủ cũng phải nể mặt vài phần, địa vị và cấp bậc trong môn phái khác nhau thì quyền hạn cũng khác nhau…
Lão Ngũ quay sang tôi, tặc lưỡi nói tiếp:
- Ông nội mi thật quá coi thường mạng sống. - Lão chỉ thẳng vào cổ tôi. - Hai mảnh ngọc này quan trọng đến thế sao, ngoài cửa hàng có đến hàng tá. Cái gì mà Nam phái Bắc phái thống nhất làm một chứ? Mẹ kiếp, giờ thì còn ai quan tâm đến điều đó chứ. Ông nội mi cũng thật là ngốc ngếch, không biết suy tính kỹ càng gì cả, nếu là ta thì có hàng trăm cái ta cũng không đi.
Mặc dù tôi cũng đã nghĩ đến những vấn đề này và cảm thấy vô cùng hối hận, hối hận vì sao lúc đó không ngăn ông nội, thế nhưng khi nghe những lời nói thẳng thắn của Lão Ngũ, tôi vẫn không dám thừa nhận sai lầm của mình, chỉ biết cúi gằm mặt không nói câu nào.
Chị Giai Tuệ thở dài, vỗ vỗ lên vai tôi nói tiếp:
- Lão kể tiếp chuyện về Lão Cửu đi.
Lão Ngũ từ từ gật đầu, nói:
- Đến đầu năm thứ tư, Lão Cửu bỗng dưng quay trở về, thế nhưng có một điều khiến mọi người cảm thấy rất khó hiểu: Lão Cửu đã cụt mất hai cánh tay, còn năm tên đệ tử thì không thấy bóng dáng đâu cả. Khi biết tin, tất cả các huynh đệ từ mười ba tỉnh thành kéo tới tận nhà Lão Cửu hỏi thăm, mồm thì xoen xoét nịnh bợ, nhưng thực ra chỉ là muốn biết Lão Cửu cuối cùng đã tìm ra loại bảo bối gì. Nhưng Lão Cửu là người như thế nào chứ, ông ấy chỉ cần nhìn thoáng qua là đủ biết chúng thuộc hạng người gì. Mặc cho bọn chúng ra sức gặng hỏi, Lão Cửu cũng không hé ra nửa lời, lạnh tanh quay đi, khiến đám huynh đệ sượng mặt ra về. Cho đến tận sau này, cũng không ai biết được Lão Cửu trong suốt thời gian đó đã gặp những chuyện gì, vì sao đi liền một mạch ba năm trời và khi trở về lại biến thành một người tàn phế, còn năm người đệ tử đã mất tích ra sao. Vài năm sau đó, Lão Cửu qua đời vì bệnh lao phổi, trước khi nhắm mắt, lão đã truyền lại vị trí của mình cho Lục đệ, tức là người đệ tử thứ sáu.
Ha ha! Thế nhưng người đi thì trà cũng nguội, một mình Lục đệ không đủ sức để chống chọi lại với cuộc nội chiến trong môn phái, tất cả huynh đệ từ Bắc chí Nam lại kéo về, ai ai cũng không phục, đòi Lục đệ đem mảnh ngọc bội ra để phân chia lại ngôi vị. Có những tên còn tham lam nói rằng, Lão Cửu sở hữu rất nhiều bảo bối hiếm có, nên đã bắt Lục đệ giao tất cả những thứ đó. Ban đầu còn nói ý tứ này nọ, sau đó thì nói toạc móng heo, lộ nguyên hình là một lũ tham lam và xấu xa, thậm chí thiếu chút nữa còn xảy ra bạo loạn. Thấy rõ được bộ mặt của những con quỷ tham lam, Lục đệ chỉ cười lạnh lùng rồi phán một câu: “Họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm”, rồi quay người vào trong nhà, khi bước ra cầm theo một chiếc hộp để lên mặt bàn, rồi nói: Lão Cửu trước khi đi chỉ để lại thứ này, nếu muốn thì hãy cầm đi.
Mọi người đều tưởng rằng bên trong chiếc hộp đó chính là tín vật môn phái, liền lao tới giành giật, không ngờ sau khi mở ra, bên trong đó lại là một loại đất đen mịn, không ngừng chuyển động. Nhìn thấy vưu vật trước mặt, đám người kia lập tức lao tới như một lũ điên, cào xé tranh giành, mặc cho chỗ đất bị rơi ra quá nửa. Trong lúc giằng xé, bỗng có tiếng quát: Ngọc bội của Đạo môn đâu? Tất cả cùng quay đầu lại nhưng chẳng thấy tăm hơi của Lục đệ đâu, có lẽ là ông ta đã bỏ đi cùng với miếng ngọc bội.
Mặc dù không tìm thấy miếng ngọc bội đâu nhưng loại đất đen này thật sự rất kỳ quái. Nó công dụng giống y hệt như loại cát bay, thế nên mọi người đều đoán rằng đây chính là thứ Lão Cửu mang về, từ đó loại Đất chuyển này mới thực sự có tiếng tăm. Nhưng vì lượng đất thì ít mà người muốn nó thì nhiều, nên những người không có được nó liền nảy lòng tham, cướp đoạt lẫn nhau, và quên mất quy tắc trong phái Đạo môn, phải hiểu rõ ngọn ngành trước khi ra tay. Cũng vì chuyện đó mà rất nhiều huynh đệ phải mất mạng, trưởng môn phái Đạo môn đã bỏ đi, tam phẩm cửu giới thập bát thuật cũng dần dần bị mai một…
Nói đến đây, Lão Ngũ bỗng thở dài một tiếng, mặt đầy vẻ thê lương:
- Đất chuyển à đất chuyển, mày chính là nấm mồ chôn Đạo môn đấy, bao công xây dựng vun đắp giờ đã đổ xuống sông xuống bể.
Tôi càng nghe càng cảm thấy xót xa, rồi nghĩ đến phái Kiện môn cũng bị phân chia cũng chỉ vì nhân cách của con người bị tha hóa, xem ra những làng nghề cổ truyền của Trung Quốc cũng đều vì lí do này mà mai một dần.
Chị Giai Tuệ thấy tôi cho vẻ trầm ngâm liền quay sang gợi chuyện cho Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, vậy loại đất chuyển được tìm thấy ở vùng đất đen, từ thời nhà Thanh, điều này thì không có gì để bàn cãi nữa. Nhưng loại cát bay do Lưu Bác Ôn phát hiện ra ở vùng Thạch Sơn từ thời nhà Minh đã bị khai thác hết, vậy tại sao ở dưới địa cung này vẫn còn nhiều thế?
Lão Ngũ lắc lắc đầu, nói tiếp:
- Mi hỏi ta, ta biết hỏi ai? Thế nhưng những tên đầu trọc tết tóc đuôi sam này vốn chỉ quen sống trên núi, vậy mà có thể trị vì đất nước trong hơn hai trăm năm, điều này ta không thể không nể phục. Cũng như nhà Nguyên, người Nội Mông vốn là dân du mục chuyên chăn ngựa chăn bò, vậy mà biết đánh bại bọn Tây mũi lõ, mở rộng giang sơn. Xem ra người dân tộc thiểu số cũng thật lợi hại. Chỉ tiếc là trong dòng dõi dân tộc Hồi của ta thì chưa có ai đủ may mắn để lên làm hoàng đế cả.
Tôi tò mò hỏi:
- Lão Ngũ, lão là người dân tộc Hồi sao?
Lão Ngũ phì cười, đáp lại câu hỏi ngô nghê của tôi:
- Lẽ nào mi không nhận ra ta không ăn thịt lợn? Họ Hắc của ta khởi nguồn từ một vị đại quan người tộc Hồi trong triều đình Mãn Thanh. Xem ra, tổ tiên ta cũng là những người tài giỏi ra phết, vậy mà đến đời ta lại biến thành kẻ trộm… Ha ha, hay đấy, hay đấy!
Tôi sực nhớ lại, lúc ăn cơm ở trụ sở cảnh sát, quả thật tôi chỉ thấy Lão Ngũ gắp rau và thịt dê vào bát, lúc đó tôi không để ý lắm vì nghĩ rằng đấy là do khẩu vị của từng người khác nhau. Thế nhưng tôi lại cảm giác Lão Ngũ ghét ra mặt người Mãn, không khéo đây mới là lí do chính. Quay sang nhìn chị Giai Tuệ, trong lòng nghĩ ngợi lung tung, tổ tiên của chị Giai Tuệ cướp đi giang sơn của tổ tiên Lão Ngũ, giờ hai người đó lại cùng một người dân tộc Hán là tôi vào địa cung tìm ông nội, điều này mới thực sự là kỳ quặc.
Cứ mải nghe Lão Ngũ kể chuyện hơn một tiếng đồng hồ, bụng dạ cũng qua cơn đói khát nên chúng tôi quyết định tiếp tục dò tìm phía trong hầm.
Lão Ngũ đứng dậy, vặn vẹo tay chân cho đỡ mỏi, rồi sang sảng tuyên bố:
- Đã là trộm thì không được về tay không, chúng ta vừa lấy được ba hạt cát bay, đó là loại bảo bối hiếm có, nên chia ra mỗi người giữ một hạt. - Nói rồi, lão từ từ hé lòng bàn tay ra để lộ ba hạt cát trắng đang nhảy múa rất vui mắt, lão tóm lấy một hạt đưa cho chị Giai Tuệ. - Cố tìm chỗ mà giữ lấy, đừng để nó tuột mất. Còn lại hai hạt, ta và Lan Lan mỗi người giữ một hạt. Đây, Lan Lan, hạt này là của mi. - Tôi vội giữ chặt hạt cát trong tay, chỉ sợ nó đi mất.
Lấy được bảo bối, Lão Ngũ hí hửng lên hẳn, lão xoa xoa cằm, lẩm bẩm một mình:
- Nếu như thoát được khỏi đây, thì chuyến đi lần này coi như bõ công, vừa mở mang đầu óc lại còn có bảo bối mang về. Đem về Bắc Kinh bán, chắc cũng kiếm được căn hộ vạn tệ.
Thấy Lão Ngũ đang mơ màng chìm trong giấc mơ làm giàu, tôi không khỏi phì cười, nghĩ thầm trong bụng, chắc Lão Ngũ ở trong tù lâu quá rồi, nên nhận thức cũng lạc hậu đi nhiều, giờ đây “căn hộ vạn tệ” đã trở nên xa xôi lắm rồi. Với nhịp sống chóng mặt như hiện nay, ngay ở thành phố Trường Xuân thôi, căn hộ ổn ổn cũng phải mất vài chục vạn tệ, còn ở Bắc Kinh, một vạn tệ chắc chỉ mua được khoảng đất đặt vừa bàn chân.
Chị Giai Tuệ nhét hạt cát vào trong vỏ đạn, rồi dùng miếng dán urgo dán kín, sau đó cẩn thận nhét vào ngăn bí mật trong balô. Lão Ngũ thì đưa bàn tay đang nắm chặt hạt cát vào bên trong áo, rồi vỗ bụng bình bịch, tôi đoán chắc lão đã cất giữ hạt cát đó rất cẩn thận rồi.
Tôi không có khả năng giấu đồ như Lão Ngũ, trông lão làm cứ nhẹ nhàng như không. Lão đem theo bên mình không ít đồ linh tinh, nên việc cất giữ hạt cát này chắc không phải là quá khó.
Tôi thì loay hay không biết có nên nhét hạt cát vào lõi một chiếc kim nào đó hay không? Thấy vẻ mặt tôi ngẩn ngơ, Lão Ngũ liền bảo chị Giai Tuệ đưa cho lão một miếng urgo rồi nói với tôi:
- Nhóc con, đưa tay cho ta!
Tay trái tôi đang cầm chai nước lọc, nên theo phản xạ liền đưa tay phải ra cho lão.
Lão vỗ tay tôi đánh bốp.
- Tay kia!
Tôi không biết lão đang định làm gì, nhưng vẫn ngoan ngoãn tuân lệnh. Miệng lỗ sẹo trong lòng bàn tay tôi giờ đã khô lại, không còn chảy máu nữa, nhưng vì muốn giữ lại nó, tôi đã nhét một ống kim loại rỗng vào giữa.
Tay trái Lão Ngũ giữ lấy bàn tay tôi, ngón cái sờ nhẹ miệng vết thương, rồi đột ngột ấn mạnh xuống, không biết lão làm như thế nào mà ống kim loại bắn ra, rơi đánh keng xuống mặt sàn đá. Lão Ngũ lùa hạt cát vào lỗ sẹo của tôi, rồi nhanh chóng dán miếng urgo lên, giọng lạnh lùng:
- Với nghề của chúng ta, đôi lúc bảo bối phải được cất vào da thịt thế này mới an toàn.
Tôi gật đầu, cảm nhận hạt cát nhỏ xíu đang liên tục chuyển động bên trong lỗ sẹo của tôi, nó chà xát lớp thịt xung quanh khiến tôi thấy hơi tê tê, đoạn xương nối bị nó va vào cũng phát ra tiếng lục cục, nhưng tôi lại không thấy đau đớn chút nào. Một lúc sau, hạt cát dần quen với môi trường mới nên nằm lặng yên một góc.
Chúng tôi sau khi đã ăn uống đầy đủ, liền thu dọn đồ đạc, theo chùm sáng của chiếc gương Dạ Minh tiến về phía trước hầm, cẩn trọng lần dò từng bước trong bóng tối.

Chương trước Chương sau