Z28 - Bắc Kinh 72 giờ nghẹt thở - Chương 08

Z28 - Bắc Kinh 72 giờ nghẹt thở - Chương 08

HỔ HẦU

Ngày đăng
Tổng cộng 11 hồi
Đánh giá 8.6/10 với 12995 lượt xem

Người và vật chỉ cách nhau chừng 2 thước. Văn Bình nghe rõ hơi thở của nó. Tuy nó nín thở, từ mũi và miệng nó vẫn thoát ra âm thanh rè rè xèn xẹt như thổi bễ. Nhà hầm vẫn tối như bưng song mắt Văn Bình đã bắt đầu phân biệt được sự vật xung quanh. Nhất là nhìn thấy con đười ươi nguy hiểm từ đầu xuống chân.
Đúng như chàng tiên đoán, sau khi ước lượng sức gió, con khỉ khổng lồ này cao hơn chàng 1 xải tay, và cân nặng gấp đôi chàng. Đặc biệt là 2 tay nó dài gấp rưỡi tay người. Đười ươi là 1 giống khỉ lớn sinh sống trong rừng rậm. Cùng với nền văn minh nhân loại, nếp sống gia đình khỉ cũng thay đổi mạnh mẽ. Giống khỉ nhỏ dần dà được nuôi trở thành gia súc như chó, mèo, ngựa. Giống khỉ lớn phải rút vào rừng sâu. Nạn săn bắn vô nguyên tắc ở các quốc gia Phi châu và Á châu đã làm dã thú bị tiêu diệt phần lớn. Số còn lại, vì bản năng sinh tồn rủ nhau ẩn núp trong thâm sơn cùng cốc. Con đười ươi đang đứng trước mặt Văn Bình là 1 trong những con khỉ độc tiền sử còn sống lây lứt dọc vùng biên cảnh tây nam Trung hoa.
Văn Bình nghe nói nó giống với người tuyết về nhiều phương diện. Người tuyết, tục gọi là yati, là người người hình đười ươi, cao lớn, khỏe mạnh, ở vùng Hi mã lạp sơn. Tuy vậy, từ xưa đến nay chưa ai bắt được người tuyết đem về đồng bằng. Cũng như chưa ai nuôi được đười ươi tiền sử trong nhà. Giống khỉ độc này vừa khỏe lại vừa tinh khôn, nếu được luyện tập đúng phương pháp nó còn đắc lực gấp chục lần 1 vệ sĩ giỏi cận chiến nữa. Con đười ươi phóng đôi mắt sáng quắc về phía Văn Bình. Chàng được biết giống đười ươi tiền sử có luồng nhỡn tuyến tinh tế, không thua ống kính có tia hồng ngoại được xạ thủ dùng để bắn ban đêm. Dường như mắt nó chỉ chịu thua mắt cú vọ. Theo kính toán khoa học, đười ươi tiền sử có thể nhìn thấy 1 ngọn nến thắp cháy ở xa … 380 mét, nghĩa là mắt đười ươi tiền sử sáng gấp 50 lần mắt người vào ban đêm. Dĩ nhiên, cặp mắt Văn Bình không thể sánh với mắt nhìn đèn cầy ở xa 380 mét, nhưng ít ra chàng cũng có thể theo dõi được mọi phản ứng của con vật đồ sộ, 2 bàn tay to bành như nan quạt vươn ra, đang sửa soạn tấn công tiếp. Nó chưa tấn công ngay vì sau 2 lần hạ độc thủ chớp nhoáng, nó đã đánh trượt ra ngoài. Nó khôn bằng người nên nó tạm nghỉ để rình cơ hội.
Tứ bề vẫn im lặng. Ngoại trừ hơi thở rồn rập của con khỉ độc. Nó thở mạnh hơn nên Văn Bình biết trước nó sắp tái diễn tấn trò «lấy thịt đè người». Nó to lớn thật đấy, nhưng lấy cái xác nặng nề ấy để đè chàng không phải là dễ. Chàng né người sang bên khi cánh tay lông lá xù xì của con đười ươi bổ xuống. Văn Bình khoèo chân, con vật bị mất thăng bằng bất ngờ nên chới với suýt ngã. Chàng bèn phá lên cười sằng sặc, nhưng giọng nói lạnh ngắt của thiếu phụ bí mật tự xưng là Soe-Fuk đã cất lên:
-Đồ ngu, mày đánh đòn rời rạc như vậy thì thắng sao được bài Xích bích Hầu quyền đâu?
Con khỉ khổng lồ gầm lên 1 tiếng lớn rồi hoa chân múa tay loạn xạ, đánh hàng loạt đòn 1 lúc vào người chàng. Hai tay nó đánh vào thượng bộ còn 2 chân nó phóng cước liên miên vào hạ bộ. Văn Bình vội nhảy lùi lại. Vẫn giọng nói kẻ cả của thiếu phụ, ra lệnh cho con đười ươi nghe sõi tiếng người:
-Xích bích Hầu quyền được lắm, đánh tiếp nữa đi.
Chuyến đi sang Trung hoa lục địa này đã dậy cho Văn Bình được nhiều điều mới lạ. Thật vậy, chàng là người mê học võ, và đã học được hàng chục môn võ khác nhau, từ đông sang tây, từ lối đánh cổ xa Trung hoa tới phép đánh tân tiến của quyền Anh và quyền Nam Mỹ, từ kỹ thuật đấm đá dụng sức tới bí quyết chưởng phong, khuất phục đối phương bằng nguyên khí vận lên đầu mút chân tay tạo sức mạnh ghê gớm, như trong truyện kiếm hiệp hoang đường. Nhưng chàng chưa được nghe ai nhắc đến Xích bích Hầu quyền. Nói cho đúng, thì trong một cuộc hội thảo về võ thuật quốc tế nhóm họp tại Kyôtô, Nhật bản, giữa các đại võ sư trên hoàn vũ, 1 món võ đã được đề cập tới mệnh danh là Hầu quyền. Hầu quyền là võ của loài khỉ vượn. Giống vật này chạy nhảy trong rừng, leo trèo trên cây dễ dàng và nhanh nhẹn như vận chuyển trên mặt đất nên một số bậc thày của Thiếu lâm tự nghiên cứu và áp dụng vào võ thuật, đặt tên là môn Hầu quyền. ø . Võ Thiếu Lâm có môn Hầu quyền, Văn Bình đã học qua, song Hầu quyền trong võ Thiếu lâm không có bài nào được gọi là Xích bích Hầu quyền. Đến khi con đười ươi múa quyền loang loáng như cánh quạt, phát ra những tiếng vù vù liên tục, Văn Bình mới hiểu. Xích bích là trận đánh lớn thời Tam quốc, Gia cát Khổng minh bày mưu cho đô đốc Chu Du thiêu chết hàng chục vạn binh sĩ của Tào Tháo trên sông Xích bích. Thuyền bè của Tháo bị giằng xéo vào nhau do liên kết nối bằng xích sắt thành cây cầu nổi khổng lồ nên khi lửa cháy binh sĩ không tài nào thoát nổi. Thì ra Xích bích Hầu quyền là bài quyền tấn công liên hoàn như thế thuyền liên hoàn trên sông Xích bích.
Tuy nhiên, điều làm Văn Bình lưu tâm đến nhất là sức nóng từ thân thể con đười ươi phát ra. Khi múa quyền nhanh, thường thường con người tỏa mát hoặc lạnh, cũng như cánh quạt làm hơi gió chuyển động. Vậy mà ngón võ của con khỉ đột này lại nóng. Không phải nóng rát da mặt như đứng gần lò sưởi mùa hè -nghĩa là sức nóng làm đổ bồ hôi như tắm- mà là nóng như bàn ủi vừa lấy ra khỏi than hồng và dí vào người. Thảo nào gọi là Xích bích Hầu quyền! Bài quyền kỳ dị này đã gợi lại những ngọn lửa không tiền khoáng hậu trên giòng Xích bích. Văn Bình vội thoái 2 bộ, phần để tránh đòn và nghiên cứu thế đánh mới lạ của con đười ươi, nhưng phần khác để tránh sức nóng ghê gớm. Chàng có cảm giác như nhiều mảng tóc trên đầu chàng bị bắt lửa, sặc 1 mùi khét lẹt. Con đười ươi rượt theo, chàng nhảy lùi thêm nữa. Giọng kẻ cả của thiếu phụ lại vẳng lên:
-Trời ơi, võ nghệ của quý khách chỉ xoàng xĩnh đến thế thôi ư?
Thiếu phụ cố tình khích bác Văn Bình. Chàng không thể né tránh được nữa. Chàng phải trổ tài siêu việt để khuất phục con đười ươi. Nhưng khuất phục nó bằng cách nào? Bình sinh, chàng chưa học được phương pháp biến nóng thành lạnh. Chàng chỉ còn cách vận công cho da thịt cứng như sắt rồi xử dụng những đòn trời giáng để hóa giải con vật lợi hại.
Một trận gió nóng bỏng lại quạt vào mặt chàng. Lần này chàng xuống tấn để chịu đòn. Bàn tay lông lá chém xuống vai làm chàng ê ẩm và vải áo cháy sèo sèo. Con đười ươi rú lên 1 tiếng khoái trá, nhưng nó không khoái trá được lâu vì Văn Bình đã quạt trái 1 atémi cực mạnh. Nếu nó là người thì đòn này đã xô nó ngã nhào xuống đất, thiệt mạng tức khắc, hoặc ít ra cũng bị trọng thương. Tuy nhiên, nó vẫn nhởn nhơ như không. Dường như thân thể nó được bọc bằng thép dầy. Thấy Văn Bình đánh tiếp vào hông trái, con đười ươi thản nhiên đưa người ra hứng. Qua bóng tối, người và vật đã sát vào nhau. Văn Bình phải nín thở để khỏi bị hơi nóng áp đảo. Sau cùng, con khỉ đột đã ôm được chàng. Vòng tay to lớn của nó đã khép chặt quanh lưng chàng. Nó đã thi thố hết tài ba. Chỉ trong 1 vài phút nữa, những ống xương lớn của chàng sẽ bị gãy nát, kêu rau ráu. Con vật tinh khôn không biết rằng Văn Bình chỉ chờ sát lá cà để hạ độc thủ. Đầu gối của chàng được nâng lên đập trúng huyệt kintêki của con đười ươi. Kintêki là yếu huyệt thuộc hạ bộ đàn ông, đánh trúng nhẹ thì mê man, đánh nặng có thể chết. Giống khỉ có tạng phủ như người, hạ bộ của nó thường lớn hơn người nhiều lần nên huyệt kintêki dễ bị hở. Các võ sĩ thường mặc sì líp bằng nhựa thật chật và cứng để che chở hạ bộ trong khi con đười ươi lại hoàn toàn trần truồng. Văn Bình thúc nhanh đầu gối lên thật mạnh chạm huyệt kintêki. Bị đánh đau bất ngờ, con vật thét lên 1 tiếng đau đớn, long trời lở đất. Song đó mới là đòn phản công giáo đầu. Văn Bình đánh tiếp sau khi con đười ươi bị thương ở hạ bộ, là 1 atémi bằng đầu ngón tay trái chụm lại như mũi dùi vào giữa huyệt tự đồng, 1 yếu huyệt khác ở dưới nách. Mỗi bên nách có 1 huyệt tự đồng, nhưng huyệt bên trái là huyệt chết vì ở gần trái tim, còn huyệt bên phải chỉ là huyệt tê. Văn Bình chỉ muốn tạm loại con vật ra ngoài vòng chiến chứ không muốn giết. Chàng thấy nó là vệ sĩ đắc lực, chủ nhân nó phải mất khá nhiều công phu dạy dỗ. Vả lại, chàng không muốn làm mất lòng người đàn bà ngồi núp trong bóng tối.
Chàng nghe 1 tiếng ình dữ dội. Con đười ươi bị đánh dộng đầu vào chân tường. Nó ngã lăn quay trên nền hầm, miệng rên la thảm thiết. Văn Bình vội nói:
-Yêu cầu bà mở đèn lên để tôi giải huyệt cho con khỉ.
Nhà hầm trở lại sáng chưng như cũ. Quang cảnh không khác hồi nãy với tứ phía trống trơn. Chỉ có 1 điều khác: giữa nhà Văn Bình thấy 1 cái ghế-xe ( xe lăn điện) bằng sắt tròn mạ kền, loại ghế-xe dành cho người tàn tật. Đây là loại xe đặc biệt được chế tạo tại Hoa Kỳ, không cần người đẩy, phế nhân ngồi trên có thể điều khiển dễ dàng bằng 1 cần lái nhỏ và động cơ điện. Ngồi ngay ngắn trên ghế-xe này là 1 thiếu phụ. Nàng chưa xưng tên, Văn Bình cũng biết là Soe-Fuk, nữ quản gia của tướng Kan-Yeh tại trang trại chứa gái đẹp M.9, đồng thời là nữ điệp viên quý báu của ông tổng giám đốc tình báo Anh quốc.
Ông M. nói đúng, nàng không còn trẻ nữa nhưng nàng cũng chưa già. Nàng thuộc vào đẳng cấp hiếm có của những người đàn bà đẹp, không chịu ảnh hưởng tai hại của thời gian. Nhan sắc phụ nữ cũng như thời tiết, có 4 mùa xuân hạ thu đông, song Soe-Fuk chỉ biết có mùa xuân từ ngày nàng lớn lên đến nay. Nàng trang điểm rất ít nhưng rất khéo, phải có con mắt thạo đời như Văn Bình mới khám phá ra 1 làn phấn trắng mỏng trên da mặt trắng muốt điểm chút má hồng nhẹ nhàng và đôi môi tô son màu cá vàng nhạt. Nàng có lối trang điểm kín đáo mà lôi cuốn của mỹ nhân Á đông. Diện mạo nàng cũng thuần túy Á đông tuy sống mũi nàng hơi cao và trán nàng hơi rộng. Chi tiết Á đông nổi bật nhất trên khuôn mặt trái soan của nàng là cặp mắt. Mắt đẹp, theo người Á đông phải là mắt chim nhạn tròng đen bóng pha nâu vàng, mắt chim phụng, đuôi mắt hơi xếch, tròng sáng như sao, mắt chim loan, hơi vàng, đuôi dài, lúc nào cũng long lanh nghĩa là mắt phải tròn mà dài, đuôi mắt thật dài, tròng đen và tròng trắng phân minh, thật bóng và thật sáng. Mắt của Soe-Fuk không phải mắt nhạn, mắt phụng hoặc mắt loan mà vẫn đẹp, và còn đẹp hơn nữa. Văn Bình ngây người ngắm nàng. Nàng có cặp mắt tròn, tướng số Trung hoa gọi là mắt hạc, vậy mà không phải mắt hạc. Văn Bình đã lê gót chân hồ hải trên khắp trái đất, đến đâu chàng cũng dành nhiều thời giờ cho công cuộc tìm kiếm sắc đẹp, chàng nhận thấy mắt đẹp nhất phải là mắt phụ nữ Nê pan. Nê pan là 1 vương quốc cổ xưa nằm kẹt giữa 2 ông khổng lồ Trung hoa và Ấn độ. Có lẽ tạo hóa phú cho phụ nữ Nê pan cặp mắt đẹp rộng lớn vì xứ sở họ lọt thỏm bên triền núi Hy mã lạp sơn hùng vĩ, quanh năm suốt tháng chỉ có mây trắng và đồi núi trùng điệp. Họ cần cặp mắt to để lãnh hội sắc đẹp vũ trụ hoang liêu. Nhưng mắt họ chỉ rộng lớn mà không ướt, rộng lớn mà không có tình. Mắt của Soe-Fuk rộng lớn hơn, trong trẻo hơn mắt giai nhân Nê pan, lại tụ hội được thần khí sắc sảo và hấp dẫn của nữ giới Tây phương nên Văn Bình líu lưỡi, chùng gân, tứ chi bất động, đứng trơ trơ như pho tượng, quên cả phép lịch sự sơ đẳng là chào hỏi phụ nữ. Soe-Fuk đã chào chàng trước:
-Vinh hạnh được đón tiếp ông tại đây. Và tôi rất bằng lòng về võ nghệ của ông.
Soe-Fuk vẫn dùng giọng bề trên như thể chàng chỉ là nhân viên dưới quyền nàng trong Quốc tế Tình báo Sở. Thái độ của nàng không làm Văn Bình ngạc nhiên. Sống quen trong sự điều khiển, nàng có giọng nói hách dịch không có gì là lạ. Chàng chỉ cảm thấy băn khoăn: nàng là Soe-Fuk, hay là ai?
Chàng bèn hỏi:
-Chào bà. Thưa … bà là …
Thiếu phụ nhăn mặt:
- Ông đã hỏi một lần rồi, và tôi đã trả lời. Tôi cũng đã biết ông là ai. Ông đừng ngại. Nhà hầm này là giang sơn bất khả xâm phạm của tôi, ông có la hét cũng chẳng ai nghe. Tường được xây bằng gạch hãm thanh, lại còn được bọc ni lông hãm thanh nữa. Hệ thống ghi âm bí mật do tôi đích thân điều khiển, và tôi đã tắt. Ông có biết tại sao thời gian lưu lại Bắc kinh của ông chỉ có thể lâu nhất là 72 giờ không?
Văn Bình liếm mép lộ vẻ bối rối. Tại Luân đôn, ông M. chỉ nói là chàng sẽ hoạt động trong khoảng 72 giờ đồng hồ ở Bắc kinh. Ông M. không giải thích nguyên nhân và chàng cũng không nêu thắc mắc. Trông vẻ mặt nghiêm trang của Soe-Fuk, chàng đoán già con số 72 giờ đồng hồ này là 1 điều kiện quan trọng. Tuy nhiên, tại sao lại là 72 giờ chứ không là 48 giờ hoặc 24 giờ hoặc 1 tuần, 2 tuần?
Soe-Fuk đã trả lời giùm chàng:
-72 giờ đồng hồ, vị chi 3 ngày 3 đêm. Ông phải thành công trong vòng 72 giờ, vì quá 72 giờ ông sẽ khó có hy vọng thoát chết.
Văn Bình khựng người:
-Tướng Kan sẽ giết tôi hừ, bà yên tâm, trước khi đến đây tôi đã biết trước là tướng Kan sẽ không cho tôi trở về Luân đôn an toàn. Hắn phải hạ sát tôi, thứ nhất để khỏi phải trả 1 món tiền quá lớn, thứ hai để bảo vệ bí mật. Tôi đã có kế hoạch ngăn chặn mưu đồ của tướng Kan.
-Kế hoạch của ông ra sao?
-Khi ấy tôi nói cũng chưa muộn. Tôi nghĩ rằng thời giờ gấp rút, bà nên cho tôi biết rõ chi tiết về công việc phải làm, tiện hơn.
-Ông lầm rồi. Vả lại, tôi không tin là ông đã sắp sẵn kế hoạch đối phó. Chẳng qua ông ỷ vào tài ba và kinh nghiệm của ông nên nói cho oai đấy thôi.
-Thưa bà, …
-Ông hãy để tôi nói hết. Tôi nhận thấy ông là người kiêu ngạo. Kiêu ngạo là đức tính của đàn ông. Nhưng ông ơi, kiêu ngạo trong hoàn cảnh này vô ích vì trước khi ông tìm ra kế hoạch, tướng Kan đã giết ông. Tướng Kan đã cho ông xập bẫy tử thần ngay sau khi ông đặt chân xuống Hoa lục.
-Kan đã khám phá ra tôi đội lốt Rô-bơn?
-Không đâu. Nếu biết ông là Rô-bơn giả hiệu, hắn đã không mở cửa mời ông vào M.9. Ông đã bị còng tay tại trường bay Quảng châu. Sở dĩ Kan hạ lệnh giết ông …
Văn Bình cắt ngang:
-Hắn hạ lệnh giết tôi từ khi nào?
Soe-Fuk ngửa mặt lên cần phòng:
-Như tôi đã nói hồi nãy, từ khi ông đến Quảng châu và được đưa về chiêu đãi quán.
-Bà nói hơi lạ. Nếu quả thật Kan hạ lệnh giết tôi tại sao tôi vẫn còn sống phây phây để giờ này được ngồi trò truyện với bà?
-Phải. Giờ này ông còn sống phây phây vì thời hạn 72 giờ đồng hồ chưa hết. Sau thời hạn ấy, ông có sức khỏe như Hạng Võ tái sinh cũng chết.
-Tôi bị đầu độc
-Vâng, ông bị đầu độc. Bằng một loại thuốc độc ngấm từ từ.
Văn Bình lặng người. Điều chàng không ngờ tới đã xảy ra. Cơ thể chàng đã quen với hàng trăm thứ độc dược khác nhau, từ chất strychnine trong phòng thí nghiệm hóa hợp đến nọc rắn trên đỉnh núi hoang vu.
Giọng Soe-Fuk xoáy tròn nghe rợn tóc gáy:
-Đây là 1 loại thuốc độc đặc biệt, hết sức đặc biệt. Thoạt mới uống, nó gây cảm giác thoải mái như rượu huýt ky thượng hảo hạng. Nó làm cho người uống gia tăng khí lực khiến ai cũng lầm là có tính chất bổ dưỡng. Trên thực tế, đàn ông dùng nó có thể thức cả đêm và trác táng liên miên không hề thấm mệt. Nhưng đó là uống có chừng mực, uống đúng liều lượng. Uống quá liều lượng như ông đã làm ở Chiêu đãi sở ở Quảng châu, nó trở thành độc dược vô cùng nguy hiểm. Tác động của nó rất lạ: nó ngấm vào máu, nhưng sau 72 giờ đến 96 giờ đồng hồ nó mới độc thật sự. Quá thời hạn đã định, người uống sẽ xây xẩm mặt mày, rồi đột ngột đứng tim mà chết. Y sĩ giải phẫu thi thể sẽ tưởng là bệnh não xung huyết, nghĩa là mạch máu trên óc bị đứt, chứ không ngờ là vì thuốc độc.
Văn Bình cảm thấy ơn ớn ở cuống họng. Chàng đằng hắng 1 tiếng rồi hỏi:
-Thưa bà, độc dược được pha trộn vào rượu Nhất thế Tiên xà phải không ?
Thiếu phụ gật đầu:
-Phải. Uống 1 vài ly nhỏ thì không sao, đằng này ông quá tham lam uống những 6 ly đầy ắp.
-Y sĩ đã đo áp huyết và cho tôi biết là bình thường.
-Họ đã báo cáo với tôi. Nghe nói áp huyết ông có 12/8, tôi lấy làm kinh ngạc. Tuy vậy, nhân viên của tôi tại Quảng châu cũng đã cẩn thận cho ông uống thuốc giải độc mặc dầu áp huyết ông rất thấp.
-Nhưng tôi đã từ chối không uống.
-Ông có uống. Uống mà không biết đấy thôi. Ông uống trước khi lên phi cơ. Nữ nhân viên của tôi đã pha vào rượu 2 viên thuốc giải độc. Nếu không, giờ này ông đã nằm thẳng tuột trên giường, thân thể hoàn toàn bị tê liệt.
-Cám ơn bà đã cứu sống tôi.
-Không phải tôi. Ông nên cám ơn tướng Kan-Yeh.
-Trời ơi, cách đây mấy phút bà nói là tướng Kan-Yeh hạ lệnh giết tôi ở Quảng châu, giờ đây bà lại muốn tôi coi hắn là ân nhân cứu tử. Tôi không dè bà sính nói đùa như vậy!
-Ông tưởng đùa, nhưng đó chính là sự thật. Tôi sống nửa đời người ở Hoa lục, luôn luôn kề cái chết, luôn luôn nung nấu mối thù chưa trả nên không có thời giờ để đùa.
-Xin bà tha lỗi.
-Ông ăn nói khéo ghê! Từ nhiều năm nay, tôi mới được nghe 1 người đàn ông mềm mỏng và ngt ngào như ông. Sở dĩ ông nhận thấy những điều mâu thuẫn trong lời của tôi là vì ông chưa hiểu rõ sự việc. Vâng, Kan đã hạ lệnh giết ông, lệnh này được gởi bằng mật điện xuống Quảng châu và tôi có cả bản sao. Theo lệnh, nhân viên chiêu đãi chỉ cho ông uống đủ số rượu cần thiết, nghĩa là số rượu cho ông tỉnh táo trong vòng 72 giờ đồng hồ. Nhưng ông đã dùng quá dung lượng. Bởi vậy họ phải pha thuốc giải độc. Tướng Kan-Yeh vừa giết ông, vừa cứu ông là như thế. Ông hiểu chưa?
-Thưa bà, hiểu rồi.
-Mặc dầu ông đã uống thuốc giải độc, tôi vẫn còn áy náy cho nên tôi đã bố trí để ông đấu quyền với con hổ hầu của tôi. Tôi cảm thấy đã xúc phạm đến ông, song tôi không còn cách nào khác. Nếu để ông tỉ thí với các vệ sĩ, họ sẽ biết ông giỏi võ và ông sẽ bại lộ. Vả lại, tìm ra 1 cộng sự viên thân tín đủ tài nghệ và kinh nghiệm để đương đầu với ông 1 vài hiệp là chuyện rất khó khăn, còn khó hơn cả chuyện mò kim đáy biển nữa. Vì thế, tôi phải dùng con hổ hầu. Mục đích của tôi là để kiểm điểm lại xem ông còn đủ khí lực và tài trí minh mẫn hay không vì nếu thuốc độc bắt đầu tác hại, ông sẽ không thể đánh quyền trong đêm tối. Tôi rất mừng khi thấy ông là đại võ sư. Hơn nữa, ông lại có cặp mắt kỳ lạ nhìn được trong đêm tối, đúng nhưng ông tổng giám đốc M. đã mật báo cho tôi biết.
Văn Bình giật nẩy người. Ông M. gớm thật! Ông cố tình chọn chàng là vì Soe-Fuk yêu cầu được tiếp xúc với 1 điệp viên có cặp mắt nhìn xuyên màn tối. Nhưng Soe-Fuk cần điệp viên có cặp mắt nhìn xuyên màn tối này để làm gì? Chàng nghĩ lan man trong trí song không dám cất tiếng hỏi.
Soe-Fuk nói tiếp:
-Tôi rất mừng vì nếu ông không có cặp mắt nhìn xuyên màn tối, ông sẽ khó thể thành công trong điệp vụ "Người Yêu" mà ông M. giao phó cho ông. Lý do rất giản dị: hầu hết các cơ sở của tướng Kan đều được xây cất dưới hầm, và ban đêm không thắp đèn.
-Tướng Kan vừa tiếp tôi tại phòng riêng gần Thiên trà đường. Tôi thấy ở đó rất nhiều đèn.
-Ồ, Thiên trà đường mới là vòng ngoài. Vòng trong được bảo vệ kiên cố hơn nhiều. Ban đêm, phải đeo kiếng hồng ngoại tuyến mới khỏi bị lạc. Suốt 10 cây số đường hầm ngoằn ngoèo, bí hiểm, chứa đầy cạm bẫy kinh khủng, không có 1 ánh sáng. Tôi thả con Hổ hầu ra mà bụng cứ thấp thỏm vì sợ ông không nhìn thấy nó và tỉ thí với nó. Tôi đã chuẩn bị kỹ lưỡng, nếu ông mắt kém, tôi ra lệnh cho con Hổ hầu ngừng lại. Và dĩ nhiên …
-Dĩ nhiên bà mời tôi lên đường trở về Luân đôn.
-Không. Ai đã lọt vào trong này là không còn hy vọng trở về nữa. Không riêng gì ông, nhiều vị y sĩ đại tài đã được tướng Kan-Yeh thỉnh tới trung tâm M.9 để điều trị cho Kim-My, và đều phải bỏ thây tại đây. Tôi chờ cơ hội thoát thân từ nhiều năm nay, nếu ông là 1 điệp viên tầm thường thì có lẽ tôi đến phải tự tử. Vì vậy, gặp ông tôi có cảm tưởng như chết đi sống lại.
-Bà dậy quá lời. Liệu chất độc có còn lại trong cơ thể tôi không, thưa bà?
-Chắc hẳn là còn. Nhưng ông đừng lo. Tính từ lúc ông uống rượu Nhất thế Tiên xà tửu tại Quảng châu đến giờ, mới trải qua 15 tiếng đồng hồ. Tôi hy vọng ông sẽ thành công trong khoảng 15 tiếng đồng hồ sắp tới, nghĩa là trước khi chất độc gây hại đến tính mạng.
-Tại sao bà chưa cho tôi uống thuốc giải độc ngay bây giờ?
-Tôi rất muốn như vậy, song phiền 1 nỗi là tủ thuốc giải độc này không nằm trong tay tôi.
-Hiện tủ thuốc giải độc ở đâu?
-Trong phòng riêng của tướng Kan.
-Bà hãy dẫn tôi tới. Tôi sẽ tìm cách giết Kan. Bà giúp tôi ra khỏi M.9. Tôi sẽ đưa bà về Tây phương.
-Hừ, ông lạc quan quá ! Lục địa Trung hoa ngày nay là 1 trại giam rộng lớn, vô cùng kiên cố. Vào đã khó, ra khỏi còn khó gấp trăm lần. Vả lại, còn phải ra khỏi trung tâm M.9 nữa. Không giấu gì ông, đến cả tôi cũng chưa biết đường ra khỏi M.9.
-Nếu muốn thoát thân thì phải làm cách nào ?
-Trước hết chữa cho Kim-My khỏi bệnh.
-Tôi sợ không thể làm được việc này vì bà thừa biết tôi chỉ là thày thuốc thôi miên giả hiệu. Cho dẫu Rô-bơn thực thụ cũng vị tất chữa được căn bệnh sinh ký quái ác là bệnh lạnh lùng. Huống hồ là tôi chỉ học qua 1 vài trò ảo thuật để đánh lừa khán giả nhẹ dạ.
-Ồ, tôi bảo đảm với ông là Kim-My sẽ khỏi bệnh.
-Do tôi điều trị ?
-Phải. Sau khi gặp ông, nàng sẽ khỏi bệnh.
-Lạ thật, nghe bà nói tôi chẳng hiểu gì cả. Trừ phi bệnh lạnh lùng của Kim-My chỉ là bệnh giả, và bà đã lập mưu với nàng để lôi tướng Kan vào xiếc.
-Cũng gần như vậy. Tuy nhiên, ông không nên tìm hiểu thì hơn, vì nhiệm vụ của ông tại Bắc kinh là làm phụ tá cho tôi. Mọi việc đều do tôi quyết định.
Bình sinh Văn Bình chưa làm phụ tá cho ai. Chàng vẫn được coi là điệp viên có nhiều tự ái nhất, nhưng không ai lấy làm khó chịu vì nhận thấy chàng tự ái có lý. Chàng đã hội đủ tài năng và kinh nghiệm để có thể tự ái một cách xứng đáng. Nghe Soe-Fuk nói, chàng hơi bực mình song thái độ bất mãn này chỉ thoảng qua như cơn gió. Có lẽ vì người đàn bà đang ngồi đối diện chàng có một sắc đẹp đặc biệt.
Vẻ mặt của Soe-Fuk vụt trở lại khô khan và tàn nhẫn. Miệng nàng tươi như hoa cẩm chướng nở trong sương sớm, vậy mà nàng không cười. Đôi mắt rộng sáng và long lanh của nàng chiếu thẳng vào mắt Văn Bình, kiêu căng và thách thức :
-Mời ông theo tôi.
Soe-Fuk vừa cất tiếng là chiếc xe mạ kền bóng loáng của nàng lăn bánh bon bon. Con khỉ độc có sức mạnh phi thường đã đứng dựa lưng vào tường. Nó còn suýt soa vì những đòn nặng của Văn Bình. Dưới ánh đèn, nó có vẻ nhỏ hơn, thấp hơn như chàng thấy trong bóng tối, song bắp thịt nó rắn chắc và nổi cuồn cuộn sau làn da lông lá đen sì. Nếu nó không có bộ mặt ghê sợ, với cái lưỡi đỏ dài như trái núc nác lửa, và không có làn da lông lá, nó không khác con người là bao. Con đười ươi ngoảnh mặt ra chỗ khác, không dám nhìn Văn Bình. Soe-Fuk quát :
-Mày còn đợi gì mà chưa bái lậy ông khách ?
Con khỉ độc quỳ mọp trên đất, lên gối xuống gối lia lịa. Soe-Fuk quay lại Văn Bình :
-Ông thấy con hổ hầu của tôi ra thế nào ?
Văn Bình kéo con đười ươi đứng dậy. Hồi nãy, nó dữ tợn chừng nào, giờ đây hiền lành chừng nấy. Tưởng như con chó nhật lông xù nhỏ xíu mà giới mệnh phụ phu nhân thường dùng làm cảnh trong xa lông sang trọng cũng chỉ có thể ngoan ngoãn đến thế là cùng. Nó chắp tay đứng sau Soe-Fuk, mắt cúi xuống. Văn Bình đáp :
-Tôi du lịch đã nhiều, được biết nhiều giống đười ươi nhưng chưa gặp giống nào khôn hơn, và khỏe hơn con hổ hầu của bà. Nếu tôi không lầm thì nó thuộc loài sơn viên ở vùng rừng núi giáp giới Diến Điện.
Soe-Fuk gật đầu :
-Phải, nó là sơn viên. Trên thế giới, loài khỉ này đã chết gần hết, dường như ngày nay chỉ còn sống sót vài ba trăm con tại Trung hoa mà thôi. Tôi vốn mến loài vật, nhất là giống khỉ và tình cờ nuôi được con sơn viên này. Thật ra, từ trước đến nay chưa ai hoặc ít ai nuôi nổi giống sơn viên vì nó rất dữ, dữ như hổ đói cũng chưa tới đâu. Vì vậy người ta mới gọi là hổ hầu. Hễ gặp người trong rừng là nó tấn công liền. Không bao giờ nó chịu đầu hàng. Nếu chẳng may sa bẫy và bị bắt sống thì nó sẽ cắn cổ tự tử. Con hổ hầu này được tôi nuôi từ khi lọt lòng mẹ, nghĩa là cách đây mười mấy năm, lúc tôi hoạt động với tướng Kan ở vùng biên giới tây nam Trung quốc. Nó có mười mấy tuổi là to lớn như vậy, đến tuổi 18, 20 nó còn to lớn hơn nữa. Tôi được thấy những con sơn viên nặng trên 200 kí và cao 2m40, 2m50, nghĩa là nặng hơn và cao hơn những người nặng nhất và cao nhất trên trái đất. Tôi cho nó học đủ thập bát ban võ nghệ, về nhu đạo nó đánh atémi không kém võ sĩ đệ tam đẳng. Nhờ có sức mạnh và cặp mắt tinh anh, nó thừa tài nghệ triệt hạ những võ sĩ đệ tam đẳng. Ông quật được nó nên tôi đoán chắc ông phải từ đệ tứ đẳng đai đen trở lên.
Văn Bình nhún vai:
-Vâng, về nhu đạo, tôi cũng nhì nhằng thôi.
Soe-Fuk lắc đầu:
-Ông đừng tưởng tôi không biết võ nghệ. Trong đám phụ nữ ở đây, tôi là người giỏi võ nhất. Chẳng may bị bán thân bất toại nên tôi không thể tập luyện như xưa, nhưng về lý thuyết tôi có thể xác định được giá trị của các võ sĩ. Ông giỏi võ như thế tôi mới có hy vọng loại trừ được bọn cấm vệ chung quanh tư thất của tướng Kan-Yeh.
-Bọn họ đông lắm, thưa bà?
-Về số lượng thì chẳng lấy gì làm đông. Tổng cộng chỉ có 20 tên, 20 tên này là thành phần trung kiên và đắc lực nhất của đội cấm vệ. Nếu kể hết thì có gần 200. Tuy nhiên, chỉ có 20 tên vừa kể là đáng lo. Ban đêm, như tôi đã nói với ông, những đường của trung tâm M.9 đều tắt đèn tối thui, riêng khu tư thất của tướng Kan lại tối thui hơn cả. Bọn cấm vệ trung kiên này có nhỡn quang rất sáng, họ lại đeo kiếng hồng ngoại tuyến nên ban đêm đối với họ chẳng khác gì ban ngày. Họ chia ra thành 2 toán, mỗi toán 10 tên, và tuần tự canh gác ngày đêm chung quanh tư thất. Vì bản tính đa nghi, tướng Kan không cho phép nhân viên cấm vệ được đeo khí giới. Súng ống bị cấm đã đành, ngay cả đao kiếm cũng bị cấm triệt để nữa. Do đó, bọn cấm vệ phải giỏi võ. Họ canh gác bằng bàn tay không, cùng với 1 số dụng cụ điện tử tối tân. Về đường lối ra vào cũng như cách thức điều khiển dụng cụ điện tử, tôi có thể giúp ông. Nhưng còn về đội cấm vệ, …
-Được. Xin bà tin ở tôi.
-Dĩ nhiên là tôi tin ông. Tôi phải tin ông vì từ phút này trở đi, tôi không thể lùi bước được nữa. Nếu ông thất bại, vai trò của tôi sẽ bại lộ, và ông chết thì tôi cũng chết. Cho nên tôi cần nói rõ ông biết về khả năng của bọn cấm vệ.
-Mỗi toán gồm 10 tên, nghĩa là tôi phải tìm cách diệt từ được 10 tên một lúc mới lọt được vào tư thất của tướng Kan-Yeh, phải không thưa bà ?
-Không. Căn nhà của tướng Kan được xây cất theo hình tam giác, vì vậy mỗi bức tường chỉ có 3 tên cấm vệ canh gác. Ba nhóm canh gác 3 bức đường, còn tên còn lại giữ nhiệm vụ chỉ huy.
-Về võ nghệ, bọn cấm vệ so sánh với con hổ hầu ra sao, thưa bà?
-Vấn đề so sánh khó thể đặt ra vì con hổ hầu của tôi có thân xác đồ sộ và cân nặng gấp rưỡi, gấp đôi người thường. Bọn cấm vệ lại hoàn toàn khác, trong số 20 tên cấm vệ, tên nặng nhất chỉ được 30 kí lô, nghĩa là chưa bằng phân nửa ông.
-Thưa, 30 kí lô … nếu tôi không lầm, họ đều là người lùn.
-Không, họ không phải là người lùn. Ttướng Kan-Yeh cũng có 1 đội vệ sĩ lùn, 1 giống lùn khỏe mạnh và dữ tợn khét tiếng, gọi là giống lùn Onges, sinh sống trên Ấn độ dương. Song đội vệ sĩ lùn này không đồn trú ở đây (1). Bọn vệ sĩ của tướng Kan ở đây cũng có bề cao như người Tàu thông thường, nghĩa là độ thước năm, thước sáu lộn lại. Họ chỉ khác ở bề ngang, bề dầy. Vai họ mỏng dính và ngắn ngủn, và bề dầy từ lưng ra ngực của họ chỉ độ 9, 10 phân tây là cùng. Tóm lại, bọn vệ sĩ này thuộc một giống người mỏng nhất thế giới, và nhẹ cân nhất thế giới
Tuy điềm tĩnh, Văn Bình không ngăn được ngạc nhiên. Chàng đã nghe nói nhiều đến giống lùn và giống cao của Quốc tế Tình báo Sở nhưng chưa hề nghe nói đến giống mỏng và nhẹ. Chàng có nhiều cơ hội chạm trán bọn điệp viên lùn tịt của Bắc kinh. Có những tên chỉ cao chưa đầy nửa mét mà bắn súng, đánh dao tài tình, đấu quyền cũng tài tình không kém. Chàng còn có cơ hội quần thảo với bọn điệp viên khổng lồ, bộ ngực vuông vức như cái tủ đựng quần áo, cái cổ tròn xoe trông như cột đình, dậm chân lên nền nhà là gạch hoa vỡ nát … Nói cho đúng, Văn Bình không lạ gì giống người mỏng và nhẹ. Sở Điệp báo Anh quốc của ông M. cũng đã tuyển mộ được một nhân viên có bộ ngực mỏng lét như bộ ngực Oméga quốc tế của kỳ quan Sô ra (2). Nhân viên này được dùng để lẻn qua những kẽ hở nhỏ khi cần đột nhập nơi lạ. Bọn người nhẹ và mỏng này có cái lợi là xê dịch thật nhanh nhẹn như thể giỏi phép tàng hình Ninjutsu Nhật bản, mà ai muốn đánh họ lại khó trúng đòn.
-Thưa bà, chắc là 20 tên cấm vệ này giỏi võ?
Soe-Fuk gật đầu:
-Dĩ nhiên. Hầu hết đều được học Tốn nhị quyền. Nếu ông đã nghiên cứu võ lâm Trung hoa, hoặc có cơ hội lưu lại tỉnh Thiểm tây tại Hoa lục, ông hẳn nghe nói đến Tốn Nhị quyền. Đây là 1 bộ quyền huyền ảo và lợi hại, nhiều bộ quyền nổi tiếng khác của phái Thiếu lâm hoặc Côn lôn không sao địch nổi.
Văn Bình không thể không nghe nói Tốn Nhị quyền. Không những thế, chàng còn tập thử nữa. Đúng như Soe-Fuk nói, Tốn Nhị quyền phát sinh từ vùng rừng núi hoang vu của tỉnh Thiểm tây, dường như vào thế kỷ thứ 3, thứ 4 sau Thiên chúa giáng sinh gì đó. Truyền thuyết Trung hoa có nhiều vị thần, thần Tốn Nhị là thần gió, cũng như Đằng Lục là thần tuyết. Một vị cao tăng trong tỉnh Thiểm tây đã dựa vào sức cuốn xoáy của gió núi để sáng chế ra bộ quyền Tốn Nhị. Bộ quyền Tốn Nhị thích hợp với người mảnh mai và nhẹ cân. Khi đánh quyền, võ sĩ quay tứ phía, các đòn được phát ra hư hư thực thực. Văn Bình từng học quyền Tốn Nhị song đánh không được nhanh và hữu hiệu. Triệt hạ được quyền này rất khó vì dùng sức mạnh vô ích, đối với địch thủ cao lớn, am tường nội ngoại công, võ sĩ Tốn Nhị né tránh rất tài tình, đòn đánh vào người như thể đánh vào bông gòn hoặc đánh vào không khí. Đội cấm vệ của tướng Kan-Yeh là những tên võ sĩ người mỏng, nhẹ cân, thành thạo Tốn Nhị quyền nên Soe-Fuk dặn Văn Bình nên thận trọng là phải lắm. Soe-Fuk nhìn vào giữa mắt chàng:
-Ông đã học quyền Tốn Nhị chưa?
Văn Bình đáp:
-Rồi.
-Vậy, tôi có thể yên tâm được. Khi đương đầu bọn cấm vệ, ông phải hạ ngay độc thủ.
-Thưa, giết cả 10 tên?
-Phải. Mỗi bức tường có 3 tên, ông có thể giết lần lượt, cứ 3 tên một, còn tên thứ mười là tên chỉ huy thì giết sau cùng. Xong xuôi, ông mới có thể đột nhập an toàn tư thất của tướng Kan-Yeh. Kan cũng rất giỏi võ, khi ấy tôi hy vọng là có thể giúp đỡ được ông.
-Thưa bà, tôi có thể đến tư thất Kan-Yeh ngay bây giờ được chưa?
-Chưa. Ông cần nghỉ ngơi 1 lát cho lại sức. Tôi nhận thấy sau trận đấu với con hổ hầu, thần sắc ông đã biến đổi. Ông có chân khí rồi rào, nhưng không nên phí sức.
Nghe nói, Văn Bình mới nhớ lại những giây phút vận công để chống lại hơi nóng ghê gớm từ thân thể con đười ươi tinh khôn tỏa ra. Quả như Soe-Fuk nhận xét, chàng đã phí nhiều sức. Một phần chân khí của chàng đã được xử dụng vào việc xua đuổi hơi nóng thiêu đốt. Giờ đây, tay chân chàng lạnh ngắt. Lạnh ngắt như thể bị dầm trong thùng nước đá.
Chiếc xe phế nhân mạ kền bóng loáng chở Soe-Fuk dừng lại. Con đười ươi đẩy xe 1 cách ngoan ngoãn và khả ái như thể nữ điều dưỡng chuyên nghiệp trong bệnh viện tư. Té ra trong khi mải trò chuyện, Văn Bình đã đi qua 1 hành lang dài và bước vào 1 căn phòng rộng, trần thiết cổ kính bằng ghế xa lông khảm xà cừ và giường chân quỳ treo riềm và mùng bằng vải ngũ sắc thêu đủ hình long ly quy phượng. Đặc biệt là trong phòng có 2 cái giường. Cái giường kê ở góc diêm dúa chừng nào thì cái giường kê giữa nhà lại cũ xưa chừng nấy. Lệ thường, người Tàu ít kê giường giữa nhà. Văn Bình quan sát thì thấy cái giường kê giữa nhà này đã tróc sơn, nệm cũng đã rách mặc dầu bên trên không có 1 hột bụi. Chàng có cảm tưởng đây là chiếc giường lịch sử trong viện bảo tàng.
Thấy vẻ mặt băn khoăn của Văn Bình, Soe-Fuk cất tiếng hỏi:
-Ông sửng sốt phải không ?
Văn Bình gật đầu nhưng không đáp. Soe-Fuk giải thích:
-Ông sửng sốt là đúng vì căn phòng này chỉ được dành riêng cho thượng khách danh dự, mà trong những năm tôi sống tại đây chưa có thượng khách danh dự nào đến thăm tôi nên tôi chưa hề mở cửa. Đồ đạc trong phòng đều rất quý giá, chỉ riêng cái giường kê giữa nhà cũng trị giá mấy triệu đôla.
Văn Bình sửng sốt thật sự:
-Thưa bà, cái giường gỗ cũ kỹ này trị giá mấy triệu đôla?
Soe-Fuk cười nhè nhẹ:
-Vâng, tôi nói đây là đôla Mỹ chứ không phải đôla Hồng kông. Cách đây 2 năm, 1 công ty khảo cổ Anh quốc nghe tin, cho người qua tận Bắc kinh dạm mua. Thấy họ săn đón quá mức, tôi bèn ra giá 5 triệu đôla Mỹ. Năm triệu đôla Mỹ, xin ông nghe rõ cho. Tôi đinh ninh họ sẽ bỏ chạy thật mau, không ngờ lão đại diện công ty chấp thuận ngay tức khắc. Tôi hoảng quá vội kiếm cớ đình hoãn. Và tôi không bằng lòng bán nữa, mặc dầu sau đó công ty khảo cổ này chịu tăng giá mua lên 8 triệu đôla Mỹ. Ông biết tại sao cái giường gỗ cũ kỹ này lại đắt đến 8 triệu đôla được không?
Văn Bình lặng thinh. Nếu biết, chàng đã không hỏi. Chàng nhìn lui, nhìn tới thì cũng chẳng khám phá thêm chi tiết lịch sử nào khác. Đúng ra, nó không phải là giường ngủ mà là 1 bộ ván, chắc là gỗ tốt, quý, lên nước bóng loáng và không bị mục. Nếu đem bày bán tại đường Hồng thập tự Sàigòn thì không ai thèm nhìn, chứ đừng nói chi là thèm mua nữa. Soe-Fuk chắp 2 bàn tay trên đùi, giọng bâng khuâng:
-Cái giường xấu xí này là 1 trong những cổ vật liên quan đến lịch sử Trung quốc. Nó đã ra đời từ trên 1.400 năm nay, và là cái giường riêng của 1 tăng sĩ Phật giáo, pháp danh là Bảo Chính, từ trần năm 514 tại 1 ngôi chùa lớn ở Hàng Châu. Khi Bảo Chính từ trần, ngài nói với các đồ đệ là ngài đi viếng thăm xứ Phật 1 thời gian rồi trở về. Rồi ngài nhắm mắt. Tuy các đồ đệ của ngài mai táng ngài hẳn hòi, họ vẫn tin là ngài sẽ trở về, vì vậy họ vẫn giữ cái giường để ngài nằm. Và trong suốt 14 thế kỷ, các đồ đệ tiếp tục lau chùi cái giường thật sạch sẽ, luôn luôn giặt mùng, giặt mền và thay khăn giường. Từ bấy đến nay, cái giường này đã được thay khăn trải trên nửa triệu lần, và qua 57 đời đệ tử họ vẫn nhiệt thành tin tưởng là hòa thượng Bảo Chính sẽ trở về. Sự tích của cái giường này là như vậy. Tướng Kan-Yeh đã ra lệnh cho công an Hàng Châu xung công chở về đây. Công ty khảo cổ Anh quốc tìm đủ cách điều đình để mua mà không thành. Sau này, nhân viên của tướng Kan từ Luân đôn báo cáo về là nếu đem bán đấu giá trên thị trường cổ vật quốc tế, cái giường của sư Bảo Chính có thể được trên 10 triệu đôla Mỹ. Ông biết không cái giường này chỉ là 1 trong hàng trăm báu vật của tướng Kan-Yeh tại trung tâm M.9. Nếu có thể, tôi sẽ đề nghị ông mang theo. Chỉ cần chở theo 1 xe hơi báu vật là có được 200, 300 triệu đôla. Số tiền này đâu phải nhỏ, phải không thưa ông ?
Văn Bình lí nhí đáp «vâng». Soe-Fuk mỉm cười:
-Ông ngả lưng lên giường hòa thượng Bảo Chính để may ra gặp hên. Vì tôi nghe nói ai nằm trên đều gặp hên.
Soe-Fuk quay xe định ra, Văn Bình chặn lại:
-Thưa bà, tôi được phép ngủ đến bao giờ?
Soe-Fuk đáp:
-À, suýt nữa tôi quên. Chừng nào con sơn viên này vào đánh thức thì ông dậy cũng kịp chán. Tôi không thể nói giờ vì lẽ giản dị đồng hồ không thể dùng ở đây được. Hệ thống từ thạch trong trung tâm đã làm kim đồng hồ chạy loạn xạ. Chỉ có đồng hồ đặc biệt của giới cán bộ cao cấp là có thể chạy đúng giờ, không bị nam châm hút hỏng. Thôi, đêm đã khuya, ông đi nghỉ nhé. Mọi tiện nghi cần thiết đều có trong phòng.
Ngừng 1 phút, Soe-Fuk tiếp, giọng nghiêm nghị:
-Một lần nữa, tôi xin nhắc để ông nhớ: ông là phụ tá của tôi, ông làm việc ở đây theo mạng lệnh của tôi. Nếu ông lộn xộn, tôi sẽ không cho ông uống thuốc giải độc nữa, nghĩa là trên lý thuyết ông chỉ còn sống độ 15 giờ đồng hồ nữa.
Văn Bình nhăn mặt:
-Thưa bà, bà và tôi đều ở 1 chiến tuyến. Tôi lặn lội từ Luân đôn sang đây là để giúp bà. Thái độ «săng ta» của bà dường như không lấy làm đẹp.
Soe-Fuk nhún vai:
-Ông tha lỗi cho tôi. Đối với người khác thì có lẽ tôi không nên có những lời lẽ sống sượng như vậy, nhưng đối với ông thì sòng phẳng có lợi hơn.
-Tại sao thưa bà?
-Tại sao thì ông biết lấy.
-Nghe bà nói, tôi có cảm tưởng tôi là 1 người vô cùng nguy nguy hiểm.
-Dĩ nhiên. Ông là điệp viên nguy hiểm bậc nhất của thế giới tự do. Phải là người tài ba lỗi lạc như ông mới lọt được vào trung tâm M.9. Vả lại, nếu ông là nhân viên trung cấp thì tôi đã không dại gì hợp tác với ông M.
Văn Bình liếc nhìn Soe-Fuk, bán tín bán nghi. Đôi mắt phụ nữ Nê pan tuyệt đẹp của nàng cũng đang hướng vào người chàng. Chàng tiến lên 1 bước:
-Bà đã biết tôi?
Soe-Fuk phá lên cười khanh khách, cái cười đầy kiêu ngạo và thách thức:
-Ông này hỏi lạ? Là thượng cấp mà không biết rõ thuộc hạ thì làm sao điều khiển được?
Văn Bình cảm thấy đau nhói ở cuống tim. Soe-Fuk đã coi khinh chàng 1 cách quá đáng. Dường như nàng cố tình trêu tức chàng để dò xét phản ứng. Và chàng cũng biết vậy nên cố gắng giữ vững bình tĩnh. Chàng bèn hỏi:
-Ông M. vẫn liên lạc điện đài với bà, phải không ?
Soe-Fuk đáp:
-Không. Lần liên lạc gần đây nhất đã xảy ra đúng 5 tuần lễ trước. Ông M. chỉ báo tin là 1 điệp viên siêu đẳng của thế giới Tây phương sẽ đội lốt y sĩ thôi miên Rô-bơn. Tuy nhiên, tôi đã biết trước điệp viên siêu đẳng này là ông.
-Bà đã có hình của tôi?
-Không. Đó là do nhã ý của ông M. Ông M. yêu cầu tôi lo liệu rượu huýt ky thượng hạng và thuốc lá bạc hà Salem cho ông dùng. Trên thế giới, trong số các điệp viên siêu đẳng hiện đang hoạt động chỉ có 1 mình ông đa mang 2 món ăn chơi: huýt ky và thuốc lá Salem cùng một lúc. Phải không, ông Văn Bình, ông đại tá Văn Bình, Z.28?
Văn Bình đắng họng, không nói thêm được lời nào nữa. Quả là ông tổng giám đốc MI-6 cố tình gài bẫy chàng: Soe-Fuk đã biết chàng là Z.28 bằng xương, bằng thịt. Tại sao ông M. lại hớ hênh một cách dụng ý như vậy? Chàng phải tìm hiểu cho bằng được.
Con hổ hầu khổng lồ đã đẩy xe lăn chở Soe-Fuk ra khỏi cửa. Bức tường bê tông vừa nứt ra từ từ khép lại. Văn Bình đứng trơ trơ 1 mình giữa căn phòng rộng, bên cạnh chiếc giường trị giá hơn chục triệu đôla của hòa thượng Bảo Chính, với những băn khoăn và lo âu làm đầu óc rối beng. Chàng để nguyên quần áo nằm lăn ra trên giường. Đèn trong phòng vẫn sáng, nhưng bỗng nhiên chàng có cảm tưởng là ánh đèn sáng rực hẳn lên như thể hàng chục, hàng trăm ngọn đèn 100 nến được bật lên đồng loạt trước mắt chàng. Đồng thời tai chàng bị ù như được kê sát 1 giàn âm thanh nổi mấy trăm «oát» mở hết độ lớn. Chàng chống cùi tay ngồi dậy nhưng thân chàng đã dán xuống mặt giường, tứ chi chàng mỏi rừ.
Và chàng vụt hiểu: có thể là độc dược bắt đầu ngấm vào mạch máu và đang công phạt chàng.
Chú thích:
(1) giống người lùn Onges này chỉ còn độ 500 người sống sót trên hòn đảo Little Andaman thuộc Ấn độ dương. Ngoài ra, còn 1 giống lùn khác gọi là Bambuti ở vùng rừng rậm Công gô, chỉ cao 70, 80 phân tây là cùng.
(2) Claude Seaurat, sinh năm 1798 tại Pháp quốc, có bộ ngực mỏng nhất thế giới: từ sau lưng ra đến trước ngực, người ta chỉ đo được có 7 phân rưỡi. Tuy vậy, Seaurat cũng chưa phá kỷ lục về cân nhẹ. Cân nhẹ nhất thế giới là Hopkin Hopkins, người bắc Tô cách Lan, chỉ có 5 kí rưỡi khi y từ trần tại Glamorganshire, tháng 3 năm 1754. Hopkins chỉ hưởng dương được vẻn vẹn 17 năm. Thời mập nhất, y chỉ cân được 8 kí lô mà thôi.

Chương trước Chương sau