Cạm bẫy mong manh - Chương 11

Cạm bẫy mong manh - Chương 11

Cạm bẫy mong manh
Chương 11

Ngày đăng
Tổng cộng 24 hồi
Đánh giá 9.8/10 với 21444 lượt xem

Maeve dịu hiền của tôi nhắm nghiền mắt lúc tôi bước qua cửa phòng bệnh.Nhưng chắc khứu giác của cô vẫn làm việc vì cô mỉm cười khi tôi rón rén đặt mấy cái túi lên khay màu nâu xám.- Không, - Maeve nói bằng giọng đứt đoạn. - Anh phải không?Tôi cầm cái cốc nhựa lên cho cô uống chút nước.
Mắt cô ứa lệ vì đau lúc ngồi dậy. Nỗi đau làm tôi cũng ứa nước mắt.- Em ngửi thấy mùi thịt băm lẫn phó mát, - Maeve nói rất nghiêm trang. - Nếu đây là giấc mơ và anh đánh thức em dậy, em sẽ không chịu trách nhiệm đâu đấy, Mike.- Em không mơ đâu, thiên thần của anh, - tôi nói vào tai cô lúc nhẹ nhàng trèo lên giường cạnh cô.
- Em muốn ăn thêm hành không?Mặc dù Maeve chỉ ăn nửa viên thịt và khoảng mộtphần tư cái bánh mì nhỏ xíu, má cô trông vẫn ửng hồng, khỏe hẳn lên lúc cô đẩy trả cái túi.- Anh có nhớ nửa đêm dài lê thê của bọn mình không? - Cô nói.Tôi mỉm cười. Hồi mới đi chơi với nhau, cả hai chúng tôi đi từ bốn đến mười hai giờ.
Lúc đầu, chúng tôi đến một quán bar, nhưng chán ngay, sau đó đến một cửa hàng video rồi đi siêu thị suốt đêm, cứ nhằm lối giữa các quầy thực phẩm đông lạnh mà đi. Cánh gà, bánh pizza, phó mát mozarella - những món ăn có lợi cho sức khỏe. Thói quen là thứ ta cần, miễn là có thể nấu trong lò vi sóng và ăn trong lúc xem một bộ phim cũ.
Tuy vậy, đó là những thời gian thú vị. Thỉnh thoảng chúng tôi ở lại sau khi ăn, chỉ để nói chuyện, không muốn ngừng, cho đến khi chim hót líu lo ngoài cửa sổ phòng ngủ.- Em có nhớ những thứ anh hay mang đến cho em không? - Tôi nói.Maeve làm việc tại phòng cấp cứu của Trung tâm Y tế Jacobi ở Bronx, ngay góc các phố Bốn và Chín, phân khu mới tinh của tôi.
Thực ra, trong các cuộc tuần tra, tôi lùa những người bị bắt từ các phố vào phòng cấp cứu chỉ để có dịp gặp cô.- Anh có nhớ một ông già vô gia cư to lớn, rụng hết răng mà anh đưa vào, cứ ôm ghì lấy anh không? - Maeve nói và cố cười. - Ông ta nói gì nhỉ? "Cậu không giống những con gà tây nhắng nhít kia tí nào.
Cậu rõ là ân cần".- Không phải, - lúc này tôi cũng cười với cô. - Ông ta nói: "Này cậu, cậu là người da trắng dễ thương nhất mà tôi từng gặp".Maeve nhắm mắt lại, và thôi cười. Chỉ thế thôi. Chắc trước lúc tôi vào, cô đã uống thuốc và bây giờ nhanh chóng ngủ lịm.
Tôi xiết nhẹ tay Maeve. Rồi tôi cố hết sức ra khỏi giường thật nhẹ nhàng. Tôi dọn dẹp những thứ lộn xộn, nhét chăn quanh vai Maeve rồi quỳ xuống bên cô.Tôi ngắm lồng ngực vợ tôi đang phập phồng. Thật lạ vì đây là lần đầu tiên tôi không cảm thấy giận đời hoặc Thượng đế.
Lúc rời bệnh viện, tôi kiểm tra điện thoại và thấy tên Paul Martelli.- Vẫn chưa có gì, - anh bảo tôi. - Cứ thoải mái đi. Bọn cướp vẫn ngồi yên. Tôi có số của cậu rồi.- Ned Mason vẫn còn đấy chứ? - Tôi hỏi.- Cậu ta quanh quẩn đâu đây thôi. Chúng tôi muốn cậu tránh đi, Mike.
Tôi theo lời khuyên của Martelli. Rẽ vòng lại rồi rẽ trái vào phố Sáu mươi sáu, nhằm hướng tây về nhà xem bọn trẻ ra sao.Tuyết bắt đầu rơi nhè nhẹ lúc tôi ở trong bệnh viện với Maeve, bám lên những bức tường bằng đá kết nâu và các đường ống trong Công viên Trung tâm lúc tôi chạy qua, trông như những người làm bánh đang rắc nhẹ đường lên chiếc bánh gừng.
Thành phố chết giẫm, tôi vừa nghĩ vừa lắc đầu, tim tôi tan nát thành muôn mảnh vì vẻ duyên dáng của mùa lễ hội liên miên không dứt.Liệu ở đâu có một vụ cướp ra trò khi ta cần một vụ không đây?Lúc tôi bật sóng FM, họ đang chơi bài Silver Bells. Tôi suýt đập khẩu Glock vào bảng đồng hồ thì khúc hát dịu dàng, êm ái bắt đầu cất lên.
Tôi vặn to hơn trong suốt đoạn đường còn lại về nhà.Lúc ra khỏi thang máy, tôi có thể nghe tiếng các con qua cánh cửa căn hộ đóng kín. Chẳng bao giờ là dấu hiệu tốt, tôi nghĩ lúc xoay quả đấm cửa.Trong tiền sảnh, Juliana đang ngồi trên sàn, quay lưng về phía tôi, cười khúc khích vào điện thoại.
Tôi trìu mến vỗ nhẹ lên đầu nó rồi rút dây điện thoại khỏi giắc cắm.- Đi ngủ thôi, - tôi nói.Tiếp đến tôi ghé vào phòng ngủ của các con gái, bài hát của Mercedes Freer đang lên đến cao trào. Quay lưng lại tôi, Jane dẫn đầu Chrissy và Shawna trong một vũ điệu hào hứng. Tuy tôi có thể ôm ghì các con để chúng lại trở nên ngoan ngoãn, nhưng tôi lờ mờ nhớ lại lời nói quả quyết của Maeve về sự không thích hợp của nữ ca sĩ này.
Ba tiếng kêu ré lên như thủy tinh vỡ khi tôi tắt radio, rồi sau đó là những tràng cười rúc rích và những khuôn mặt đỏ bừng khi mấy đứa con gái nhận ra tôi đang ngắm chúng nhảy múa.- Hay, hay lắm. Ta không biết Mercedes Freer cóbuổi hòa nhạc ở đây, ngay trong nhà chúng ta. Ta chắc là nhà Underhills bên cạnh hài lòng lắm đây.
Có lẽ các con đã quên bài đồng ca của các con rồi?Jane nhìn cây thánh giá một lát, dường như nó định phản công bằng một cái cớ nào đó, nhưng rồi nó cúi đầu xuống.- Con xin lỗi bố, - nó nói.- Giờ mới là câu trả lời đúng, Jane, - tôi nói. - Đừng lấy làm lạ là con đạt đến trình độ như vậy.
Thôi đi. Giống như ta sắp làm vài vụ bắt giữ đây.Điểm dừng tiếp theo là phòng khách, nơi Ricky, Eddie và Trent đang ngẩn người trước cái tivi om sòm. Chúng đang xem tin tức liên tục về vụ chiếm nhà thờ trên CNN. Mạng đề rõ "Thánh đường Countdown". Tôi nhớ các kênh bị hạn chế là ESPN, Food Network, đôi khi cả với TLC, mạng hoạt hình và truyền hình công khai.
Cả ba đứa suýt bắn tung lên trần nhà lúc tôi lao qua phòng và lọt vào giữa bọn chúng.- Chúng ta cùng tụ tập xem tin thời sự nhé? - Tôi nói.- Chúng con đã trông thấy bố! - Trent kêu lên sau khi bỏ tay khỏi mặt. - Trên tivi ấy! Rõ rành rành.- Con đã bị bắt, - tôi quát lên với nó.
Brian, con trai lớn nhất của tôi, đang mải chơi game trên máy tính, không nghe thấy tôi bước vào. Tôi thổi bay cái tháp của nó đi.- Này! - Nó giận dữ quát lúc ngước lên. - Bố à? Bố! - Nó nói.- Brian à? - Tôi đáp lại. - Brian!- Con đang... ờ, - nó ấp úng.- Con có để cho tòa xét xử không đây? - Tôi nói.
- Con xin lỗi bố. Con sẽ bắt đầu làm việc nhà, - Brian nói, - ngay lập tức.Tôi suýt đánh quỵ Mary Catherine lúc trở lại tiền sảnh.- Ông Bennett. Ý tôi là Mike. Tôi xin lỗi, - cô nói, cuống quýt. - Tôi đang cố bắt các em đi ngủ thì Bridget cần tôi giúp. Nó bảo tôi rằng...- Để tôi đoán nhé, - tôi nói.
- Nó phải làm một thứ thủ công mỹ nghệ cho trường.- Sao ông biết?- Ồ, tôi quên nói với cô, - tôi đáp. - Bridget mắc bệnh nghiện các đồ thủ công mỹ nghệ. Chúng tôi đang cố tập cho nó dứt bỏ mọi thứ keo hồ, lấp lánh, hột hạt, nhưng hình như chẳng ăn thua gì. Nếu cô chiều nó, nó sẽ phá hủy cả trái đất vì thứ thèm khát không sao thỏa mãn nổi để làm những dây xích, vòng đeo chân và các thứ treo trên tường.
Nhiều lần tôi đi làm với những vệt lấp lánh trên mặt và bộ quần áo đầy những thứ chết dẫm ấy đến nỗi các bạn trong đội tưởng tôi tham gia dàn nhạc hóa trang. Bridget biếtcô mới đến, nên nó lợi dụng đấy. Đồ thủ công mỹ nghệ bị cấm tiệt trong các kỳ nghỉ cuối tuần.
Sau khi an ủi Mary Catherine và ra lệnh cho cô lên gác đi ngủ, tôi thấy một linh mục trong bếp.Người đàn ông tóc bạc trắng, thấp bè bè mặc đồ đen đang cầm một thanh sắt bốc khói, sẵn sàng cho con bé Bridget bảy tuổi dính những hạt nhựa màu trắng và hồng cuối cùng thành con ngựa pony, chiếm toàn bộ bề mặt căn bếp của chúng tôi.
- Liệu đây có phải là Cha Trơ tráo, ý cháu là Seamuskhông? - Tôi nói.Không, đây không phải là dịp Halloween 1. Ông Seamus của tôi là một linh mục. Sau khi bà vợ qua đời, ông quyết định bán quán rượu Hell’s Kitchen đã sở hữu suốt ba chục năm trời và trở thành một thầy tu.May mắn cho ông, thiên hướng tu hành hồi ấy dễ dãi chưa từng thấy, nên ông được chấp nhận.
- Ta đã đi thẳng từ địa ngục lên thiên đường, - ông thích nói thế.Hiện nay ông sống ở giáo xứ Holy Name gần khu nhà tôi, và những lúc không tham dự các công việc của xứ đạo mà ông thường làm rất chu đáo, ông lại can thiệp vào việc riêng của tôi. Vì Seamus không chỉ đơn thuần bằng lòng với việc làm hư các con tôi.
Mặc dù không thực sự khuyến khích các trò nghịch ngợm tai quái, và là thầy tu hay không, ông như cảm thấy mình đang được xả hơi.Kể cả những nốt tàn nhang của Bridget hình như cũng nhạt hẳn màu khi nó nhìn thấy tôi đứng đó.- Chúc- bố- ngủ- ngon- con- yêu- bố- lắm, - tuy vậy, nó cũng cố nói liến láu, trước khi tụt xuống khỏi cái ghế nó đang quỳ và biến mất.
Fiona đang cặp một thứ đồ chơi dưới cánh tay, lao ra khỏi bên kia ghế và cố lẩn sau hai đứa trẻ sinh đôi.- Một khoảnh khắc nghiêm trọng, phải không thưa Đức cha? Người quên cách xem đồng hồ hay sao ạ? Hay người quên đây là tối của các học trò?- Cháu không liếc con chiến mã này một cái hay sao? - Seamus nói, đưa qua đưa lại thanh sắt trên các hạt nhựa để chúng dính với nhau.
Con ngựa to gần bằng cỡ ngựa thật. Quá tệ là căn hộ không có chuồngđể nhốt. - Con bé là một nghệ sĩ thuần túy đấy, - Seamus nói. - Như người ta thường nói, nó còn sáng tạo hơn nhiều cuốn sách.- Cảm ơn ông đã khen cục vàng thông thái ấy, Seamus, nhưng nếu lũ trẻ này không đi ngủ đúng giờ, tất cả chúng ta sẽ bị kết tội đấy ạ.
Seamus rút phích cắm của thanh sắt, dựng nó thật mạnh lên cái thớt gỗ rồi liếc nhìn tôi.- Nếu vậy, tại sao còn đưa người mới vào nhà này? - Ông nói.- Cô Mary Catherine đó bảo cháu là cô ấy từ Tipperary tới. Có một chi họ nào đó ở Tipperary mà. Mọi ngọn gió thổi từ bắc Đại Tây Dương đều chẳng tốt lành gì cho trí tuệ.
Nếu ông hỏi, thì cháu phải nói là cháu không thích diện mạo cũng như hoàn cảnh của cô ấy. Một cô gái trẻ, độc thân sống cùng một nhà với người có vợ.Thế đấy. Tôi cắn cảu nói. Tôi chộp lấy con ngựa bằng nhựa. Seamus chúi đầu xuống lúc tôi ném con ngựa qua bếp và rứt bảng phân công việc nhà khỏi tủ lạnh.
- Ông muốn cháu xếp sự quan tâm của ông vào đâu, thưa ông? - Tôi kêu lên. - Vào những giờ phút cuối cùng của cô ấy hay ba mươi ba nhân vật quan trọng ở St. Paddy, với những họng súng đang chĩa vào đầu họ?Seamus đi loanh quanh trong bếp và đặt tay lên vai tôi.- Ta cứ ngỡ ta giúp được cháu, - ông nói bằng giọng mệt mỏi mà tôi chưa từng nghe thấy ở ông.
Giờ thì tôi hiểu. Hiểu lý do ông khó chịu vì sự có mặt của Mary Catherine. Ông ngỡ là bị thế chỗ, và bị đẩy khỏi hình ảnh gia đình.- Seamus, - tôi nói, - nếu cháu có một người giúp việc hai mươi tuổi, cháu vẫn cần ông giúp đỡ. Cháu cần ông giúp bằng cách ông chỉ bảo cho Mary Catherine.
Ông có thể làm việc đó được không ạ?Miệng Seamus bĩu ra lúc ông suy nghĩ.- Ta sẽ thử, - ông nói với vẻ rất kịch, hơi khổ sở. Tôi đi qua căn bếp và nhặt bảng phân công các việc lên. Lúc nhấc con ngựa bằng nhựa, tôi nhận ra nó đã mất đuôi.- Ông hàn hộ cháu cái đuôi vào đây, ông nhé? - Tôi nói và vội mang nó trở vào bếp.
Lúc tôi trở lại hiện trường hỗn loạn đằng trước St. Patrick, tôi thấy xe của Đội Giải cứu con tin FBI đã đỗ cạnh một xe của NYPD. Cùng các xe buýt chỉ huy di động, khu vực này trông như một đoàn rồng rắn khổng lồ.Có lẽ là một đoàn rồng rắn trong bãi đỗ của địa ngục.
Tôi hỏi tin chỉ huy Will Matthews, sau đó là các nhà thương thuyết khác. Vẫn chưa có gì mới từ những tay súng trong nhà thờ. Không có gì mới từ Jack.Tôi đành rót cà phê, có lẽ là tách thứ hai mươi trong ngày hôm ấy và ngồi đợi.Tôi ghét việc này, chờ đợi là cảm giác bất lực nhất.
Đây là một trong nhiều lý do khiến tôi chuyển khỏi Đội Giải cứu con tin. Trong đội Điều tra các vụ giết người, chẳng bao giờ có một giây ngơi việc, luôn luôn có vô số thứ thử thách sự kiên trì và thần kinh của bạn.Tình cờ tôi ngồi trên chiếc ghế xoay. Nó thực sựgiúp tôi có thể tránh đối diện với mặt đồng hồ đầy ám ảnh, và có thể có ích cho chúng tôi.
Tôi thấy chỉ huy Will Matthews ngồi ở đuôi xe, tay cầm cốc nước sủi bọt.- Sếp à, - tôi nói. - Anh có nhớ tôi đã nói về vụ Caroline Hopkins không? Về linh cảm của tôi với thứ gọi là tai nạn của bà ấy? Khách sạn L’Arène, nơi xảy ra sự việc chỉ cách đây ba khối nhà. Tôi đang nghĩ nên thay đổi hướng điều tra, nói chuyện với nhân viên nhà bếp.
Will Mathews dụi mắt và gật đầu.- Được, - anh nói. - Cứ hỏi chuyện độ hai mươi phút, xem có đào bới được gì không nếu anh thích thế. Rồi lại về đây nhé.Tôi vỗ vào túi.- Tôi có di động đây. Và một cái dự phòng.Nơi đó vừa xảy ra thảm kịch, rồi phố xá bị bao vây, chắc hẳn đã làm hỏng khẩu vị của những người giàu có và nổi tiếng ở New York, vì L’Arène vắng tanh vắng ngắt lúc tôi từ đại lộ Madison vào.
Tôi bước lên các bậc đá hoa vào tiền sảnh trải thảm đỏ, trắng và xanh lơ, trông đặc Pháp hơn là Mỹ. Bên kia các bậc là chanh và táo xếp thành các quả núi lộng lẫy trên nóc các thùng champagne cổ.Có lẽ vào một đêm nào khác, sự thanh lịch của nơi này sẽ không làm ta bối rối.
Và nếu tôi không quá vấtvả trong mấy giờ vừa qua, sự kiêu ngạo của ông chủ khách sạn cao ráo, mặc lễ phục đứng bên trong cửa sẽ không làm tôi giận dữ đến thế.Người đàn ông Pháp ngăm ngăm đen, tóc quăn trông như vừa ăn phải con ốc sên ươn lúc phát hiện ra tôi đứng trước cuốn sổ đặt chỗ, to bằng cuốn từ điển trong thư viện.
- Nhà bếp đang đóng cửa, - ông ta làu bàu và lại cắm cúi ghi chép vào cuốn sách.Tôi gấp cuốn sách lại và đặt tấm thẻ của mình lên trên. Tôi thưởng thức sự sửng sốt trên mặt ông ta.- Không, - tôi nói, - Thực ra là không.Lúc tôi nói là tôi đến điều tra về vụ tai nạn của Đệ nhất phu nhân, ngay lập tức ông chủ chìa ra cho tôi một tấm danh thiếp.
- Gilbert, DeWitt và Raby đại diện cho chúng tôi trong mọi vấn đề pháp lý. Mời ông đến nói chuyện với họ.- Chà, thế mới là có ích chứ, - tôi nói và ngay lập tức quăng vèo tấm các qua đầu cái mũi dài của ông chủ. - Nhưng tôi không phải là công ty bảo hiểm, tôi ở đội Điều tra Các vụ giết người.
Bây giờ hoặc là tôi nói chuyện với ông và nhân viên bếp của ông một cách thân tình, hoặc tôi sẽ mời sếp tới và chúng tôi sẽ tiến hành đúng thể thức. Nếu chúng tôi tiến hành bắt giữ, tất cả sẽ phải đến đồn cảnh sát và lẽ tất nhiên, ôngsẽ phải khẳng định có đủ giấy tờ hợp pháp của cơ quan nhập cư cho từng người để nhận dạng.
Ông hiểu không, lúc này tôi đang nghĩ đến việc yêu cầu Bộ Tư pháp tham gia vào vụ này. Ông biết FBI và IRS 1 chứ? Ông có đủ các loại biên lai thuế của L’Arène trong năm năm qua chứ? Và chắc không cần phải nói, là các nhân viên của ông có đủ giấy tờ cá nhân chứ?Vẻ mặt của ông chủ khách sạn gần như thay đổi ngay lập tức
Sau khi nghe tôi nói cần phỏng vấn nhân viên nhà bếp, ông bạn 1 Henri sốt sắng dẫn tôi qua bộ cửa xoay Tiffany màu xanh lơ và dịch các câu hỏi của tôi cho bếp trưởng.Bếp trưởng trông thấp hơn, mập hơn và già hơn người anh trai Henri. Hình như ông ta cảm thấy mất thể diện vì các câu hỏi.
Chính ông ta dọn bữa cho Đệ nhất Phu nhân, và thật vô lý nếu ông ta cho lạc vào món gan ngỗng béo, ông ta giận dữ nói.Cách duy nhất có thể lý giải là người phụ bếp ngu ngốc nào đấy đã đánh đổ dầu lạc lên món ăn trong buổi tối quá ư bận bịu đó, nhưng dù có thế đi nữa, ông ta cũng thấy vô lý.
Sau đó, người bếp trưởng sôi nổi nói gì đó bằng tiếng Pháp trước khi dọn hai cái xoong trên quầy bằng thép không gỉ và bỏ đi. Tôi bắt chợt từ người Mỹ và nghĩ là nghe thấy từ cười khẩy.- Có chuyện gì thế? - Tôi hỏi Henri.Henri đỏ bừng mặt.- Bếp trưởng gợi ý có lẽ Đệ nhất Phu nhân đã ăn một... thanh kẹo trước khi tới dùng bữa.
Tối nay, quan hệ giữa Pháp và Mỹ đã được hồi phục nhiều biết chừng nào, tôi nghĩ.- Từ tối hôm Phu nhân tới đây, ông có thay đổi nhân viên nào không? - Tôi hỏi.Henri gõ nhẹ ngón tay dài trên đôi môi tái nhợt.- Có, - ông ta nói. - Bây giờ tôi mới nghĩ ra. Một trong những người phụ bếp, Pablo, tôi tin đó là tên anh ta, đã không đến làm việc sau tai nạn khủng khiếp đó một ngày, hoặc đại loại thế.
- Họ của Pablo là gì? Địa chỉ? Anh ta có đơn xin thôi việc không?Henri nheo mắt lúc một vẻ phiền muộn, gần như ân hận lan tỏa trên nét mặt.- Giống như ông nói lúc trước về chính thức và không chính thức. Pablo là người làm thuê không chính thức. Thực ra, chúng tôi không có đơn, - ông ta nói.
- Việc anh ta ra đi cũng không có gì đáng quan tâm. Giống như ở các khách sạn khác, tỷ lệ thay đổi nhân viên phụ thường cao.- Tôi sẽ xem, - tôi nói.- Gượm đã, - Henri nói. - Tôi tin rằng anh ta có để lại vài thứ trong tủ. Ông có muốn xuống đấy ngó qua một cái không?Tôi xuống cầu thang đến chỗ cái tủ cũ của Pablo, và phát hiện ra hai thứ.
Một đôi giày đế mềm bẩn thỉu và một bảng giờ xe điện ngầm Bắc Hudson nhàu nát.Vụ của những đôi giày đế mềm bẩn thỉu, tôi nghĩ.Lại một ngõ cụt nữa, hoặc lúc đó có vẻ là như thế.Tôi nhét các món đồ của người phụ bếp vào một cái túi tìm thấy trong tủ. Có lẽ chúng tôi sẽ tìm ranhân dạng của Pablo nhờ các dấu vân tay.
Nếu như anh ta đã trở về Trung Mỹ.Tôi nhận thấy đây là một đường dẫn khá đáng buồn, nhưng thà như thế còn hơn là chẳng có gì.- Ông có tìm thấy gì không? - Henri háo hức hỏi, và tôi giơ cái túi "tang vật".Tôi sập cánh cửa tủ một tiếng vang rền.- Rất ít ỏi, Hank, - tôi nói.
Chú thích
1.Đêm 30 tháng Mười, đêm trước lễ các Thánh, trẻ em mặc quần áo giả trang thành phù thủy hoặc ma quỷ, đến từng nhà gõ cửa xin bánh kẹo. Phong tục này có nguồn gốc từ các dân tộc Xentơ (người Ấn- u ở miền Trung hoặc Tây u), rồi trở nên phổ biến ở Vương quốc Anh, Mỹ và Canada.
2.Cơ quan Thuế vụ.
3.Tiếng Pháp trong nguyên bản

Chương trước Chương sau